Thời xa vắng -full
Chương 12
Ông và Hà thân nhau từ Bốn sáu, khi gặp ở chiến khu. Khi ấy ông là bí thư huyện uỷ, Hà là trung đội trưởng bộ đội huyện. Ông viết thư cho Hà nói rằng cứ “quẳng” nó cho tôi.
Để làm quan thì khó, cho làm lính dù là lính “hảo hạng” nữa, có khó gì. Ông đã làm mọi thủ tục với quân lực Quân khu để đưa Sài về đây nhưng cả ông và Sài đều không biết nhau. Hà cũng không hề nói cho cháu biết ông có quen ai ở đây. Ba tháng sau, vào một buổi tối thứ bảy, chính uỷ lững thững xuống đại đội 12. Đợi một chiến sỹ vừa mới vừa ở trong nhà ra ông hỏi thăm và biết Sài đang ngồi học trong câu lạc bộ.
ở một chái nhà thưng cót xung quanh, kê ba chiếc bàn ăn, và đặt lên đó mấy quyển họa báo, dăm quyển sách, ba cặp báo nhân dân, Quân đội, Tiền phong… Tất cả đều đệm miếng cao su đóng đinh chẹt xuống mặt bàn.
Độ mười chiến sỹ chăm chú đọc sách báo đó. Sài ngồi phía trái trong cùng, quay mặt vào “xin lửa”. Vào tận trong cùng, ông đoán cậu đang ngồi làm toán là Sài. Chú nó bảo thằng này giỏi toán lắm mà. Ông cúi xuống nói nhỏ: “Có lửa cho tớ tí” – “Không” – “Này ngừng tay hút với tớ điếu thuốc”.
Sài ngẩng lên: “Cháu xin bác” rồi đứng dậy đi xin lửa. Chính uỷ lật quyển sách đang mở xem bìa đó biết là quyển bài tập lượng giác lớp chín. Sài vào đưa thuốc cho ông tiếp:
“Bác ở đâu ạ”
– “Tớ thủ kho trên trung đoàn bộ. Cậu tự học thế này có khó lắm không?”
– “Cái gì chẳng khó, nhưng quen đi lại thấy thích. Bác học lớp mấy”
– “Vào khoảng lớp ba lớp bốn hiện nay. Cậu đi bộ đội lâu chưa?”
– “Ba tháng”
– “Đã quen chưa”
– “Thì cũng phải quen nhưng vẫn nhớ”
– “Quê cậu ở đâu”
– “Hà Nam”
– “à thế thì đồng hương với tớ. Ta ra ngoài chút đi”
– “Làm gì ạ”
– “Để khỏi ảnh hưởng đến anh em khác, ta nói chuyện quê hương với nhau!
Sài chần chừ rồi gấp sách, cầm theo. Hai người ra ngồi ghế đá lạnh ngắt bên bờ biển thật không có gì vô duyên bằng hai người đàn ông ngồi với biển mùa đông suốt ngày đêm ầm ầm náo động như bao nhiêu lạnh buốt tái tê của cả đại dương thức ập vào bờ, hai người chỉ ngồi với nhau chừng nửa giờ. Sài biết bà ngoại ông cũng ở Bái Ninh.
Anh hỏi những ai ở làng Bái, ông bảo chỉ về đấy có một lần cách đây mấy chục năm. Thành ra chẳng còn gì ở ông để anh hỏi thêm. Ông thì biết từ ngày vào đây Sài chưa nhận được thư của gia đình. (Tất nhiên anh không thể kể là chính anh chưa viết thư về báo địa chỉ cho ai).
Đến đây chưa gặp ai quen nên rất buồn. Buồn thì anh dùng sách họ thêm vào lúc nghỉ. Anh cũng trả lời ông cái điều anh ngại nhất ở bộ đội là gác đêm. Anh không sợ “địch”, không sợ ma, mà chỉ sợ chỗ đêm tối bất thình lình có ai thụi cho mình một cái rồi chạy. Ông cười xui anh: “Thế thì nhận gác nhiều vào cho nó quen đi”.
Ông cho anh bao thuốc bông lúa rồi về. Bao thuốc với một thủ kho thì chẳng nghĩa lý gì, nhưng với anh nếu không chia hết chó bạn bè thì anh có thể hút hàng tháng. Sài nghiện thuốc lào nặng. Vào đây không có điếu phải hút thuốc lá. Lương có năm đồng, gửi tiết kiệm hai đồng.
Mỗi ngày chỉ hút có nửa điếu. Hút vài hơi nuốt cả khói rồi lại rụi đi, lựa làm sao trước khi vào màn có cái để kéo vài hơi. Cái cảnh lính “năm đồng” mặc áo “ba mươi sáu đường gian khổ” này thì dù Sài không nói, chính uỷ cũng biết. Khi ông mời điếu thuốc, châm lửa về cho ông tiếp cậu hút thêm hai hơi thật dài nữa rồi kín đáo dụi thuốc vào thành ghế, nhét phần còn lại vào túi quần. Ông biết. Ông biết cả vẻ mặt buồn buồn lặng lẽ của cậu ta đang chứa đựng một uẩn khúc gì đấy. Ngày hôm sau xuống quân lực.
“Cho mình xem “trích ngang các chiến sĩ mới”, phần nào ông lý giải được vẻ mặt buồn buồn ấy. Cậu ta đã có vợ. Vợ hơn ba tuổi. Ba năm học cấp hai đều xuất sắc nhất trường, được bằng khen của Ty giáo dục. Đỗ lớp tám vào loại ưu nhưng hoàn cảnh neo đơn phải nghỉ học.
Về xã làm trưởng ban phụ trách thiếu niên rồi đi bộ đội. Tối qua cậu ta bảo cả ba tháng nay chưa nhận được thư gia đình. Nếu đúng như vậy mấu chốt của nỗi buồn là ở chuyện vợ con và gia định cô ta! Một loạt câu hỏi mới lại đặt ra trong ông: Ba học.
Gia đình neo đơn sao lại gửi đi bộ đội! ảnh hưởng gia đình vợ không được học? Không phải. Anh trai và các chú ruột đều là cán bộ hoạt động cách mạng. Gia đình cũng là cơ sở bí mật của “Việt Minh”. Xem cung cách ngồi học tối qua thì thấy cậu ta vẫn còn thèm học lắm.
Tại sao lại bỏ học? Tại sao? “Gia đình tôi muốn gửi cháu cho các anh rèn giũa giúp”. Tuy có gây nên những xáo động trong tình cảm của ông nhưng thói quen nghề nghiệp nhắc bảo ông hãy để cậu ta tự bộc lộ mình trong tình cảm đồng đội và trước những nhiệm vụ đại đội của nó. Nó là con người thế nào, hoàn cảnh gia định thế nào chỉ một thời gian sẽ rõ cả thôi.
Đừng nên tác động gì để anh em ở đại đội nó khó làm việc ra. Ngay ở trung đoàn này đã mấy chiến sỹ, cậy bố hoặc chú mình là cán bộ, điều đi hết đại đội này đến đại đội khác. ở đại đội nào cũng chỉ được vài tháng lại phá quấy, làm cho cán bộ đại đội khốn đốn lắm. Kỷ luật cũng bị phê phán: “Các cậu không chiếu cố đến hoàn cảnh của chúng mình, làm gì có điều kiện dạy bảo con cái tử tế”. Bỏ qua mọi chuyện lại bị quở mắng:
“Căn bản các cậu không nghiêm đẻ cho nó nhờn từ đầu. Giá ngay từ đầu các cậu cứ rèn thật lực hộ tớthì đâu đến nỗi tai tiếng như bây giờ”. Nhưng rồi ôn gcũng qưuên lãng ngay chuyện đó trước những bộn bề công việc của một chính uỷ trung đoàn.
Hai tháng sau, trong buổi giao ban, ông nghe báo cáo của ban chính trị, cái bào cáo mà ít lâu nay ông đã thấy nhạm chán với những lời lẽ sáo rỗng đã được sắp sẵn, lúc nào ở đâu công việc gì nói cũng được. Nhưng hôm nay sau “tình hình nói chung”, ông phải chú ý đến chỗ “đặc biệt”.
Đặc biệt ở đại đội 12, tiểu đoàn 9 đã xuất hiện tư tưởng nằm ỳ thoái thác nhiệm vụ trong chiến sỹ mới. Chiến sỹ Giang Minh Sài đã có vợ nhưng vẫn quan hệ bất chính với một phụ nữ, có ý định đào ngũ. Đã ghi nhật ký rất bậy bạ, khoác lác, có đoạn mang tư tưởng phản động.
Đại đội đã thu cuốn nhật ký đó. Chi đoàn thanh niên đã tổ chức diễn đàn. Hầu hết đoàn viên phát biểu ý kiến phân tích sâu sắc, đả phá mạnh mẽ tư tưởng tiểu tư sản, tư tưởng phong kiến bóc lột muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, khinh thường lao động chân tay.
Chiến sỹ Sài đã nhận rõ lỗi lầm của mình, hứa sửa chữa nhưng một tuần nay toàn báo cháo, không đi lao động. Đơn vị xác định là ốm “tư tưởng”. Tiểu đoàn 9 đã chỉ thị cho đại đội tiếp tục theo dõi diễn biến tư tưởng của chiến sỹ Sài. Không để tiếp xúc nhiều với các chiến sỹ mớilàm ảnh hưởng đến tinh thần hăng say và chí tiến thủ của họ.
Các chiến sỹ trong tổ “tam tam” cũng được bồi dưỡng hàng ngày và phát hiện kịp thời những ý nghĩ tiêu cực. Chính uỷ ngồi nghe như một bản luận tội về mình. Ông đã nhận và hứa với bạn sẽ giúp thằng cháu dù ông chưa biết giúp cái gì nhưng ông cứ nghĩ chắc là để nó thành người tốt.
Nó đã xấu đến thế này sao! Ông nhìn người không đến nỗi tôi, cái cảm giác đầu tiên khkông đến nỗi tồi. Mà cảm giác đầu tiên của ông cách đây hai tháng lại thấy ở thằng bé ấy có cái gì đấy, ông chưa thể biết nhưng nhất định có cái gì ở thằng bé này đáng phải trân trọng… Hoá ra, ngược lại hoàn toàn.
Hết giờ làm việc, dặn cần vụ lấy cơm, ông đạp xe xuống đại đội 12. Hỏi thăm anh nuôi, được chỉ chỗ Sài nằm ông vào thẳng đấy. Lại chỗ câu lạc bộ. Một cái bàn dẹp đi kê vào đấy một cái giường, ngăn cách với phía ngoài bằng tấm tôn dựa vào cọc màn. Họ không cho nằm trong nhà để khỏi ảnh hưởng đến anh em đây mà. Ông lựa, hé tấm tôn và lật màn lên.
Trời, không ngờ nó lại xanh và gầy như thế. Cậu ta nằm quay mặt vào, thở mệt mỏi. Ngay cả khi ông cầm lấy cổ tay nó nóng hầm hập, cậu ta cũng không buồn và không đủ sức quay ra nhìn xem người cầm tay mình là ai. Ông bỏ màn, sẽ sàng dựa tấm tôn vào cọc màn, xăm xăm đến nhà ban chỉ huy. Cả bốn người trưởng và phó, chính trị vả quân sự ngồi xỉa răng, uống trà, hút thuốc và nghe đài. Cậu liên lạc pha nước vào phích rồi bê chậu bát đi rửa.
Thấy chính uỷ, tất cả đứng dậy như giật lùi, như dạt vào tường. Ông đã cố hết sức bình tĩnh nhưng giọng vẫn không được vồn vã tự nhiên. “Các đồng chí cứ ngồi. Tôi xuống đây đột xuất có hai việc.
Một, các đồng chí cho ngay người cáng đồng chí đang ốm nằm ở câu lạc bộ lên trạm xá trung đoàn. Hai, đưa tôi mượn cuốn nhật ký của chiến sỹ Giang Minh Sài”. Ông không hề nghe tiếng vâng dạ rối rít, tiếng mời chào ông uống nước, hút thuốc.
Cầm cuốn nhật ký, ông cười: “Thôi các đồng chí nghỉ đi. Tôi có việc vội. Đạp xe về trạm xá trung đoàn gặp trung uý bác sĩ đại đội trưởng quân y dặn dò gì đó, ông về đến nhà liễn cơm cần vụ ủ cho đã đóng chóc từng mảng không thể ăn đến bát thứ hai.
Ông lại vội vã ra công trường giám sát nghiệm thu công trình của tiểu đoàn 8. Đêm về ông đọc toàn bộ cuốn nhật ký của Sài. Thật là xấu hổ khi đọc nhật ký của người khác. Trường hợp này lại không thể nào không đọc. Có phần lạ, cậu bé này không bao giờ ghi nhật ký về công việc và diễn biến tình cảm xẩy ra ban ngày.
“Đêm… tôi quyết định phải ghi nhật ký từ đêm nay. Đây là công việc đầu tiên của đời tôi. Giá hồi đi học tôi cũng ghi nhật ký như các bạn khác hoặc học giỏi văn như Hương thì đâu đến nỗi chật vật khó khăn.
Ngày ấy đã có bạn để than vãn kêu ca. Yêu ai, ghét ai, cáu giận ai có thể chạy đến hàng ngày, gặp gỡ hàng ngày, việc gì phải viết nhật ký cho mất thì giờ. Nhưng từ hơn nửa tháng nay thành “anh bộ đội” tôi không có ai để chia sẻ .
Tổ “tam tam” ngày nào cũng “tâm sự” nhưng để tổ trưởng nắm bắt tư tưởng đi phản ánh, làm sao có thể nói rằng tôi đang khổ sở quá. Người tôi yêu không bao giờ được tới, kẻ tôi ghét không được phép tránh xa. Nhật ký có thể giúp tôi ghi nhớ những ngày tháng này.
Tôi không có gì để ghi vào ban ngày cả. Ban ngày học xạ kích, làm công trình quốc phòng, toàn những điều bí mật không được phép nói, không được phép ghi. Với lại, tôi có nghĩ ngợi gì ban ngày đâu, không có thời gian và cũng không được phép nảy sinh tư tưởng”.
Đọc tiếp Thời xa vắng – Chương 13
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!