Trâm 3: Tình Lang Hờ
Chương 10: Nhiếp hồn ly phách
Lúc lên núi là ba người, giờ chỉ có hai người họ xuống núi.
Gió núi rin rít, đường mòn quanh co. Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch bước trong im lặng.
Đi đến bên sườn núi, trước mặt không còn gì ngăn trở nữa, hai người không hẹn mà cùng ngoái lại nhìn non nước mênh mang. Phía trước họ là chim bay ngang núi biếc, khói mây vắt qua trời.
Thấy xung quanh vắng lặng không một bóng người, Lý Thư Bạch mới lên tiếng: “Mộc Thiện đại sư hình như biết thuật nhiếp hồn của Thiên Trúc.”
“Thuật nhiếp hồn ư?” Hoàng Tử Hà trầm tư nhíu mày, hồi tưởng lại cảm giác mơ màng như đang nằm mộng khi nhìn vào đôi mắt sâu hút của Mộc Thiện đại sư.
“Trước đây ta từng thấy một nhà sư người Hồ đến từ Tây Vực có thể dùng ánh mắt khống chế người khác, khiến người ta như mê như say, răm rắp nghe lời. Xem ra Mộc Thiện đại sư cũng học được thuật này, chỉ là chưa cao cường bằng nhà sư kia thôi.”
“Ừm, nghe nói ông ta từng đi qua Tây Vực, chẳng biết có liên quan gì đến con A Già Thập Niết kia không.” Rồi như sực vỡ lẽ, Hoàng Tử Hà gật đầu, “Ta ở Thục 3 năm, từng nghe truyền thuyết về pháp lực vô biên của Mộc Thiện đại sư, cũng biết chuyện Phạm Nguyên Long con trai Phạm tiết độ mê mẩn ca kỹ, có điều chưa bao giờ liên hệ hai chuyện này với nhau cả. Giờ xem ra, có lẽ Mộc Thiện đại sư đã dùng thuật nhiếp hồn để lay chuyển tâm tư Phạm Nguyên Long. Thảo nào chẳng một ai nghi ngờ con suối nhân tạo kia, mấy cái gọi là con hư hối cải, gái dữ đổi tính, chắc cũng thế cả. Nếu ông ta dùng thuật này vào việc chính đáng thì cũng tốt.”
“Song nếu năm xưa ở trong cung ông ta lại làm vài chuyện chúng ta không biết thì sao?” Lý Thư Bạch ngẩng lên nhìn cánh chim bay ngang núi, thở dài, “Nếu ông ta liên quan đến ngự bút của tiên hoàng, đến chứng điên của Ngạc thái phi và con cá trong vũng máu tiên hoàng khạc ra khi lâm chung thì sao?”
Bấy nhiêu bí mật nghiêng trời lệch đất được y nhẹ nhàng thốt ra rồi tan đi trong gió, chẳng ai hay biết.
Hoàng Tử Hà ngắm gương mặt nghiêng của Lý Thư Bạch, nét nào nét nấy đẹp đẽ mà xa xôi hơn cả ngàn dặm giang sơn, khiến cô nhất thời chẳng biết nói sao. Thật lâu, mới cất tiếng: “Bất luận thế nào thì núi Minh Nguyệt ở đây, chùa Quảng Độ ở đây. Lần sau tới gặp Mộc Thiện đại sư, chúng ta sẽ chuẩn bị kỹ càng.”
Hai người đi thẳng về phía Bắc, đến phủ quận thú.
Đến giao lộ, Lý Thư Bạch đột nhiên ngoặt sang phía bên kia.
Hoàng Tử Hà đi sau nhắc: “Gia nhầm đường rồi.”
“Không. Chỗ này cách vườn Tình chưa đầy trăm bước, chúng ta đến tìm Vũ Tuyên đi.”
Vũ Tuyên. Hoàng Tử Hà lặng người, không ngờ Lý Thư Bạch lại chủ động đến tìm hắn. Cô vội rảo bước đuổi kịp y rồi hỏi: “Sao gia biết vườn Tình đi lối này?”
“Ở nha môn chẳng treo một tấm bản đồ Thành Đô ư, ta có liếc qua.”
Hoàng Tử Hà câm nín. Y chỉ liếc qua mà có lẽ còn thông thuộc đường xá hơn kẻ sống ở đây 3 năm như cô.
Vườn Tình trồng rất nhiều mai, đào, mận, giờ đang cuối hạ, không phải mùa hoa, nên chỉ có từng chùm mạch môn tím biếc nở rộ dưới hòn giả sơn, hàng thục quỳ khoe sắc bên giậu trúc là đáng xem.
Vũ Tuyên đang xách thùng nước tưới hoa, thấy hai người đến thì gật đầu chào: “Xin đợi một lát, còn mấy luống nữa thôi.”
Hoàng Tử Hà nhìn quanh hỏi: “Bác Lý giữ vườn đâu rồi?”
“Cháu bác ấy bị ốm nên phải nghỉ ở nhà chăm sóc, ta đã nhận tưới hoa hai lần sáng tối thay bác ấy.” Nói rồi, hắn chỉ luống hoa phía trước, “Tưới hết chỗ kia là xong.”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ ra giếng múc một thùng nước, định giúp hắn tưới hoa.
Nào ngờ Lý Thư Bạch đỡ lấy thùng nước từ tay cô, thản nhiên xách giùm, rồi dúi cho cô một cái gáo. Hoàng Tử Hà thụ sủng nhược kinh, quay lại nhìn y, chỉ thấy nét mặt y vẫn bình thản như thường, bèn nhận lấy gáo, múc nước trong thùng y xách tưới từng gáo xuống luống hoa.
Thấy họ một xách một tưới tự nhiên như thế, Vũ Tuyên bất giác khựng lại, đứng lặng nhìn, thật lâu vẫn chưa định thần lại.
Mãi đến khi Hoàng Tử Hà ngoái lại hỏi: “Tưới bao nhiêu là đủ?”
Hắn mới rời mắt, cúi đầu đáp: “Tưới nhiều chút, dạo này trời nóng, nếu không tưới nhiều đến trưa lại thiếu nước.”
Hoàng Tử Hà vừa tưới hoa vừa hỏi: “Vườn rộng thế này chỉ một mình huynh lo à? Sao không nhờ thêm mấy người nữa?”
“Giờ ta ở nhà nhàn nhã, chẳng có việc gì, lao động chân tay giết thời gian ấy mà.”
“Trước đây phong cảnh vườn Tình đẹp nhất phủ Thành Đô, các quan lại đều tụ về đây, gần như ngày nào cũng có buổi họp mặt.” Hoàng Tử Hà phóng mắt nhìn ra vườn, vẻ tiếc núi: “Tiếc rằng giờ trời nóng quá, chắc cũng chẳng ai đến thưởng ngoạn.”
Vũ Tuyên gật đầu: “Giờ sen đã tàn quế chưa nở, trời lại nóng, dĩ nhiên không ai lui tới. Có điều tối qua còn có hội thả rượu theo dòng (mọi người ngồi hai bên bờ sông rồi thả chén rượu từ thượng nguồn xuống, chén rượu dừng lại trước mặt ai thì người đó cầm lên uống), mọi người thắp nến chơi đêm, còn làm mấy bài thơ.”
“Thả rượu theo dòng ư? Những ai tham dự thế?”
“Có nhiều người trong thi xã… chỉ thiếu Ôn Dương.”
Hoàng Tử Hà hỏi dồn: “Nói vậy Tề Đằng cũng đến ư?”
Vũ Tuyên gật đầu: “Tề huynh còn bắt cả cá dưới suối đem về, bảo rằng muốn nuôi một con.”
“Cá ư?” Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch tóm ngay được điểm mấu chốt, tuy ngoài mặt vẫn thản nhiên, nhưng đều đưa mắt nhìn nhau.
“Ừm, Tề Đằng thích nuôi cá. Trước đây huynh ấy nuôi một con cá đỏ, còn mua cả bình sứ về đựng, đem khoe khắp nơi rằng đây là A Già Thập Niết hiếm có trên đời, giống hệt con của Quỳ vương gia.”
Lý Thư Bạch thản nhiên hỏi: “A Già Thập Niết rất hiếm thấy, con của Tề Đằng có phải thật không?”
Vũ Tuyên cúi đầu tưới nước, miệng đáp: “Ta không biết, nhưng nghe Mộc Thiện đại sư nói là thật.”
Hoàng Tử Hà sực nhớ, lúc sáng cô từng nghe Tề Đằng hỏi Vũ Tuyên có nhớ con cá đỏ của hắn đâu rồi không.
Bấy giờ nét mặt Vũ Tuyên méo xệch đi vì kinh hãi, trông mà phát khiếp.
Cô múc từng gáo nước tưới cho khóm thục quỳ, thong dong hỏi lại: “Huynh có biết con cá đỏ của Tề Đằng… giờ ở đâu không?”
Vũ Tuyên lặng người giây lát, đoạn đưa mắt nhìn cô, thấy cô vẫn bình thản nhìn mình thì gượng gạo hít sâu một hơi, đáp khẽ: “Ta không rõ… Lâu lắm cũng chẳng thấy đâu.”
“Bao lâu không thấy rồi?”
Vũ Tuyên nghĩ ngợi thật lâu, mặt hơi tái đi: “Hình như khoảng… sau khi phủ quận thú xảy ra chuyện.”
Hoàng Tử Hà ừm một tiếng, trầm ngâm. Lý Thư Bạch thấy cánh tay cầm gáo của cô đờ ra, bèn cầm lấy gáo từ tay cô, tiếp tục tưới.
Chỉ còn Hoàng Tử Hà và Vũ Tuyên đứng dưới bóng thục quỳ, ánh mặt trời hắt bóng hoa lên người cả hai, dập dờn lay động, thoắt sáng thoắt tối.
Hoàng Tử Hà chợt thấy lòng đau nhói, vội ngoảnh mặt đi về phía Lý Thư Bạch.
Để phá tan không khí ngại ngùng, Vũ Tuyên nói khẽ: “Ta nhớ trước đó mọi người từng đùa rằng, ngoại hiệu của Tề Đằng đừng gọi là Hàn Nguyệt công tử nữa, đổi phứt thành Dưỡng Ngư công tử cho rồi… Có điều về sau chẳng thấy con cá ấy đâu, nên cũng chẳng ai trêu nữa.”
Hoàng Tử Hà dừng bước, nhận thấy có điểm không ổn: “Ngoại hiệu của Tề Đằng là Hàn Nguyệt công tử ư?”
“Đúng thế, Tề Đằng tên chữ là Hàm Việt, đồng âm với Hàn Nguyệt, sau khi Ôn Dương tham gia thi xã, mấy kẻ nhiều chuyện bèn trêu rằng, Ôn Dương và Hàn Nguyệt đúng là trời sinh một đôi, từ bấy mọi người khi vua đùa đều gọi huynh ấy là Hàn Nguyệt công tử.”
Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ rồi chậm rãi nhận xét: “Xem ra Tề Đằng cũng may mắn thật. Muội xem hồ sơ thấy năm ngoái huynh ấy vẫn đang bất đắc chí, giữ một chức chi sử hạng bét dưới quyền Phạm tướng quân, thế mà năm nay đã lọt mắt xanh Phạm tướng, đường mây rộng mở, chỉ vỏn vẹn mấy tháng đã được đề bạt làm phán quan rồi!”
Vũ Tuyên gật đầu: “Đúng thế, ai mà ngờ được?”
“Huynh ấy thăng tiến nhanh như thế, có phải là nhờ người thân trợ giúp không?”
“Ta không biết, có lẽ thế.”
Luống cuối cùng trồng đầy nguyệt quế. Trời nắng gắt nên cây héo rũ, cành lá lưa thưa, chỉ lác đác vài ba bông hoa ủ uê.
“Giống nguyệt quế này rất đẹp, mùa xuân năm nay đóa nào cũng to bằng cái bát, đủ cả hình, sắc, hương.” Vũ Tuyên vừa tưới vừa kể, “Ta nhớ Tề Đằng thích nhất loại hoa này.”
Hoàng Tử Hà thuận miệng hỏi: “Tề Đằng thích nguyệt quế ư?”
“Huynh ấy thích tất cả những loài hoa màu sắc rực rỡ. Trái lại Ôn Dương ghét nhất những loài hoa lộng lẫy, ví như nguyệt quế, mẫu đơn, tú cầu, thục quỳ, vân vân…”
Hoàng Tử Hà nghĩ ngay đến bức tranh tú cầu hồ điệp treo trong thư phòng Ôn Dương, bèn chậm rãi gật đầu hỏi: “Quan hệ giữa Ôn Dương và Tề Đằng thế nào?”
Vũ Tuyên nghĩ ngợi hồi lâu mới đáp: “Cũng ít khi qua lại.”
“Huynh thì sao?” Hoàng Tử Hà ngập ngừng hồi lâu, cuối cùng vẫn hỏi: “Trong hai người đó, huynh thân với ai hơn?”
Vũ Tuyên ngoảnh mặt đi: “Tề Đằng từng cứu ta, Ôn Dương cùng ta bàn luận thư pháp, nhưng ta xem cả hai… đều là sơ giao thôi. Chơi cùng cũng được, không cũng chẳng sao.”
Hoàng Tử Hà hỏi dồn: “Tề Đằng cứu huynh lúc nào thế?”
“Sau khi cha mẹ nuôi qua đời, ta nghĩ quẩn, tình cờ Tề Đằng đi ngang qua cứu được.” Hắn không muốn nói nhiều nên chỉ đáp qua loa, song cũng đủ khiến Hoàng Tử Hà lặng đi như bị rút cạn sức lực, một lúc lâu cũng chẳng biết phản ứng ra sao. Khó khăn lắm, cô mới nặn ra được mấy chữ: “Huynh… vì sao?”
“Ta… không chịu đựng nổi, muốn trốn tránh…” Hắn ngoảnh đầu đi, đáp khẽ: “Đời này ta đã nếm nỗi đau nhà tan cửa nát một lần, không muốn chịu thêm… lần thứ hai nữa.”
Hai mắt Hoàng Tử Hà cay sè, nỗi chua xót khôn tả từ từ quặn lên trong lòng, khiến cô gần như không kìm nổi nước mắt.
Thấy mắt cô ầng ậng nước, Lý Thư Bạch sợ cô khóa òa, bèn nhắc nhở: “Không còn sớm đâu, Tử Tần đang đợi ở nha môn đấy.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, ngửa mặt lên hít một hơi thật sâu, nuốt nước mắt vào lòng.
Thấy cô định đi, Vũ Tuyên liền hỏi: “Vụ án Ôn Dương… có liên quan gì đến cái chết của cha mẹ nuôi hay không?”
“Ở Thành Đô này, không mấy người lấy được trẩm độc. Hơn nữa còn có thể tiếp cận phủ quận thú, thì càng ít.” Nói đoạn, cô lắc đầu, “Nhưng chỉ là cùng một loại độc thôi, cũng có thể tại muội đa nghi.” Thật ra còn một mối liên hệ nữa, chính là chiếc vòng hắn tặng cô. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, Hoàng Tử Hà quyết định giấu nhẹm.
“Nói đến đây, ta lại nhớ một chuyện.”
“Gì cơ?”
“Ta biết một người, có lẽ có quan hệ với cung đình, có thể lấy được trẩm độc.”
“Ai?”
“Tề Đằng.”
Đừng nói Hoàng Tử Hà, ngay cả Lý Thư Bạch cũng cảnh giác hỏi lại: “Tề Đằng từng tiếp xúc với người trong cung ư?”
“Chuyện ngày ta không rõ lắm, nhưng mấy hôm trước Vương Uẩn nhà họ Vương Lang Gia đến đây…” Nhắc tới cái tên này, hắn lại đưa mắt nhìn Hoàng Tử Hà.
Tâm trạng Hoàng Tử Hà đang suy sụp nên mắt chỉ hơi sáng lên, đợi nghe tiếp.
Vũ Tuyên do dự một thoáng rồi tiếp: “Hôm trước Tề Đằng dẫn y tới chơi, ta mới biết hóa ra mẹ Tề Đằng họ Vương, Tề huynh là anh họ xa của Vương Uẩn.”
Hoàng Tử Hà gật đầu lẩm bẩm: “Nhà họ Vương à…”
Vương hoàng hậu ở trong cung, nếu muốn lấy trẩm độc, hẳn là thừa sức.
Lý Thư Bạch trầm ngâm giây lát rồi nhìn sang cô, ánh mắt đầy phức tạp.
Hoàng Tử Hà hiểu ý y. Vương Uẩn đến Thành Đô tìm Vũ Tuyên, đương nhiên không phải vì việc triều đình hay việc của nhà họ Vương, nguyên nhân duy nhất, chỉ có một.
Chắc hẳn tình cảnh lúc ấy cũng rất khó xử.
Chính Hoàng Tử Hà cũng không hiểu mình đang nghĩ gì, chỉ thấy lòng ngổn ngang, đành ngẩng đầu nhìn lên trời cao, thở hắt ra bảo Vũ Tuyên: “Cảm ơn huynh, chuyện này rất quan trọng, muội phải đến nha môn tìm Chu Tử Tần bàn bạc xem sao.”
Nhớ lại chuyện Mộc Thiện đại sư, Hoàng Tử Hà chần chừ hỏi: “Vũ Tuyên, muội hỏi này, huynh có biết Mộc Thiện đại sư hình như… biết thuật nhiếp hồn không?”
Vũ Tuyên nhíu mày ngạc nhiên: “Gì cơ?”
“Có thể huynh không tin, nhưng vừa rồi trong thiền phòng, quả thật ông ấy định moi chuyện gì đó từ muội.” Hoàng Tử Hà bình thản quan sát nét mặt hắn: “Dân chúng Thành Đô đều nói Mộc Thiện đại sư Phật pháp vô biên, phổ độ chúng sinh. Thật ra những thứ gọi là thần tích đó, có lẽ chỉ là thuật nhiếp hồn thôi.”
“Thuật nhiếp hồn…” Vũ Tuyên định nói gì đó rồi lại thôi, chỉ đứng yên bất động, hơi thở dần nặng nề hẳn.
Thấy hắn đứng sững, Lý Thư Bạch liền giải thích: “Thuật nhiếp hồn vốn truyền từ Tây Vực vào, nghe nói dưới thời Võ hậu từng có yêu nhân vào kinh, chỉ liếc một cái đủ khiến người ta phát điên phát dại, có cung nhân bị mê hoặc nửa đêm còn lẻn vào tẩm cung của Võ hậu toan hành thích, may mà Thượng Quan Uyển Nhi hầu cận Võ hậu quơ được một thanh đoản kiếm ném ra chém chết thích khách, mới bảo vệ được Võ hậu. Về sau Địch công Địch Nhân Kiệt phá giải lớp lớp nghi vấn, vạch trần thuật nhiếp hồn của yêu nhân, thấy mọi chuyện bại lộ, yêu nhân nọ định phản kháng, nhưng bị giết chết. Từ đó về sau, dường như không nghe nói có ai biết thuật nhiếp hồn nữa!”
Hoàng Tử Hà gật đầu bảo Vũ Tuyên: “Đúng thế, Mộc Thiện đại sư có lẽ là cao thủ về thuật đó. Dù ông ta không có tai tiếng xấu, nhưng về sau khi giao tiếp huynh nên chú ý hơn, để khỏi bị ông ta thao túng.”
Vũ Tuyên lặng lẽ gật đầu. Sắc mặt hắn vốn trắng tái, dưới ánh mặt trời càng sáng bóng lên, gần như trong suốt, đẹp đẽ vô cùng.
Cả ba cùng rời khỏi vườn Tình. Hắn trầm lặng đi sau hai người thật lâi mới cất tiếng gọi: “A Hà…”
Hoàng Tử Hà ngoái lại.
Vũ Tuyên ngập ngừng mãi, gương mặt tái nhợt đầy do dự, phân vân và sợ hãi. Hồi lâu, hắn mới nói: “Lúc trước ta có nói muốn cho muội xem một thứ.”
“Cái gì thế?”
Hắn trỏ về phía Nam: “Ở trong thư phòng của ta, nếu giờ muội rỗi thì đi xem luôn nhé.”
Hoàng Tử Hà nhìn sang hỏi ý Lý Thư Bạch thì được y gật đầu. Thấy Lý Thư Bạch bằng lòng, Vũ Tuyên chẳng nói thêm nửa lời, quay lưng đi thẳng về phía khu nhà mình.
Xưa nay đất Thục lắm hiền tài, để khích lệ sĩ tử phấn đấu, hương thân các huyện đều treo phần thưởng. Sau khi nho sinh Thành Đô thi đỗ, quan phủ sẽ phân cho nhà ở, hằng tháng còn phát lương, nhằm khuyến khích việc học hành.
Vũ Tuyên chưa đầy 19 đã đỗ giải nguyên, nức tiếng gần xa. Tuy cha cô lưu luyến không rời, nhưng vẫn phải để hắn dọn sang gian nhà mới được phân. Có lẽ cha cô cũng nghĩ con gái đã 15 16, lại có hôn ước, không nên quá thân cận với Vũ Tuyên.
Căn nhà của Vũ Tuyên ở gần cầu Hàm Nguyên phía Đông thành.
Trước cửa là một rặng đào trồng dọc bờ sông, đến mùa xuân hẳn là rất đẹp.
Hoàng Tử Hà chẳng nhớ nổi mình từng đến đây gõ cửa bao nhiêu lần. Nhưng cô biết, trừ Vũ Tuyên ra, cô là người thông thuộc cách sắp xếp bên trong nhất. Từ cổng đi vào, ngoài cùng là bức chiếu bích quét vôi trắng, sau đó đến giếng trời khá hẹp, một cái ao rộng chừng bốn năm thước vuông trồng đầy hoa súng, giờ đang cuối hạ, chính là lúc hoa nở rộ. Qua khỏi cái ao là nhà chính. Bên trái có chái nhà, hành lang quanh co. Đi tiếp là tới nhà sau, ba gian thông nhau, thư phòng liền với phòng ngủ, ngăn cách bằng giá sách và giá bày cổ vật, phòng ốc rộng rãi thoáng đãng.
Cô từng cười bảo hắn, gian nhà nhỏ thế này chi bằng dọn về phủ quận thú ở, viện Tiết Lệ hắn từng ở còn rộng rãi đẹp đẽ hơn nhiều. Nhưng hắn chỉ nằm dài trên sập, lấy sách đậy lên mặt che nắng, trầm giọng nói: “Xuất thân ta như thế, đời này kiếp này có tấc đất cắm dùi là may mắn lắm rồi. Nơi này rất tốt, người sống trên đời, dẫu là công hầu khanh tướng thì ăn ở nằm ngủ có đáng mấy chỗ đâu?”
Giờ nghĩ lại thì, quả thật từ khi Vũ Tuyên chuyển đi, giữa bọn họ đã bắt đầu xa cách. Cô bận bịu với các vụ án, hắn bận tụ họp giảng bài, thường thường mười ngày nửa tháng cũng chẳng gặp, dù ngày ngày vẫn viết thư, nhưng chỉ làm tăng cảm giác xa cách.
Bấy giờ hắn nói, A Hà, nếu muội không biết phá án có phải tốt không.
Cô nổi trận lôi đình, như bị xóa bỏ ý nghĩa tồn tại, từ nay về sau không thể ngẩng cao đầu kiêu hãnh nữa vậy. Đó là lần đầu tiên họ cãi nhau kịch liệt, cô hầm hầm chạy về nhà, thề rằng không bao giờ gặp hắn nữa. Vậy mà chỉ sáng hôm sau, hắn đã gõ cửa sổ, trao cho cô một nhành hoa quế và một chiếc hộp.
Hương hoa quế ngọt ngào tỏa ngát cả khuê phòng, chiếc vòng trong hộp khiến bao nhiêu ấm ức cô nung nấu thoắt chốc tan biến.
Nó được làm đúng theo kiểu bọn họ đã thảo luận từ lâu. Hai con cá nhỏ ngậm đuôi nhau hệt như họ, quấn quýt luyến lưu, mãi không xa rời.
Hoàng Tử Hà vừa trầm tư hồi tưởng chuyện cũ, vừa theo Vũ Tuyên vào trong.
Vòng qua bức bình phong quét vôi trắng, qua giếng trời đầy hoa súng, là đến thư phòng và phòng ngủ của hắn.
Vũ Tuyên đi đến bên bàn, mở ngăn tủ, rút ở dưới cùng ra một phong thư, giao cho Hoàng Tử Hà.
Thấy phong bì trắng trơn, không ghi tên người gửi, cũng chẳng đề tên người nhận, cô bèn đón lấy, ngước nhìn hắn dò hỏi.
Vũ Tuyên chậm rãi giải thích: “Một hôm ta từ chỗ Tề Đằng trở về thì thấy nó… ở trên bàn.”
Phong bì không dán. Cô mở ra, bên trong chỉ có một tờ giấy hoa tiên màu trắng mỏng tang.
Cô rút mảnh giấy mở ra đọc kỹ những con chữ quen thuộc trên đó.
Mười mấy năm vui vầy, qua một đêm sóng gió bất ngờ, cả nhà chỉ còn một thân côi cút giữa đời, cũng chẳng muốn hai tay vấy máu sống nốt kiếp tàn. Yêu mà chẳng được, việc đời thường trái ý, muôn mối nghiệt duyên, vận mệnh hay đùa cợt. Kiếp sau chẳng biết, kiếp này đành thôi, hạ bút thành thư, cùng người từ biệt, trời xanh mưa gió, lìa bỏ thế gian.
Hoàng Tử Hà nhìn vết mực đầm đìa trên giấy, những hàng chữ rối loạn khiến lưng cô vã mồ hôi lạnh, cả người đờ ra bất động.
Bởi nét chữ này quen thuộc đến nỗi cô cảm thấy từng chữ giống như từng con quái thú đang nhe nanh giương vuốt với mình, lăm le nuốt chửng cả hồn phách ý thức mình.
Đây là nét chữ của chính cô.
Trên đời này, chẳng ai quen thuộc với chữ của cô hơn cô nữa.
Cô bỗng thấy mỗi tấc da thịt trên người đều sởn gai ốc, từng lỗ chân lông đều rịn mồ hôi lạnh như kim đâm, hơi thở nghẹn lại, khiến cả người cô run bắn lên, sắc mặt thoắt xám ngoét.
Vũ Tuyên nhìn cô, chậm rãi nói: “Ta nhận ra… Ta nghĩ, muội hẳn cũng biết.”
Hoàng Tử Hà gắng hít một hơi thật sâu, nén dòng máu đang cuộn trào trong lồng ngực xuống nhưng vô ích. Nỗi kinh hoàng trong nháy mắt đã bao trùm toàn thân, khiến cô chỉ muốn quay người bỏ chạy, thoát khỏi con sóng tối tăm đang ập xuống mình, thoát khỏi vực sâu thăm thẳm sắp nuốt chửng mình.
Đầu ong ong lên, cô ném phong thư xuống, bịt chặt tai, gắng hết sức ép mình lấy lại lý trí.
Rồi cô ngẩng phắt lên nhìn Vũ Tuyên trừng trừng, gằn từng chữ: “Đây là gì? Huynh có ý gì?”
Hắn chăm chú nhìn cô không chớp, giọng trầm khàn: “Ý ta là, khi muội nhắc ta cảnh giác với Mộc Thiện đại sư… Có lẽ trước đây muội từng gặp đại sư?”
Ai mà biết được? Thứ mà họ phải đối mặt có thể là thật, có thể là giả, có thể nửa thật nửa giả.
Ít nhất, cô cũng không hề biết mình viết ra bức thư này lúc nào, đặt trên bàn hắn như thế nào, rồi quên bẵng nó ra sao.
Khi nhắc nhở Vũ Tuyên, cô thật không ngờ, chính mình cũng có những thứ không hề tồn tại trong ký ức, vô thức đã để lại những dấu vết mà bản thân chẳng phát hiện ra.
Cô day day huyệt thái dương nhưng không ngăn được tiếng thở gấp.
Vũ Tuyên nhìn cô, dịu giọng hỏi: “Muội… không nhớ ư?”
Hoàng Tử Hà nghiến răng lắc đầu, không thốt nổi lời nào.
Tờ giấy hoa tiên rơi xuống đất nhẹ như tơ, không một tiếng động.
Lý Thư Bạch nãy giờ chỉ đứng yên quan sát chợt nhặt lên, nhìn mấy hàng chữ không có tiêu đề cũng chẳng có lạc khoản (dòng chữ viết nhỏ để tên họ và ngày tháng), lặng lẽ đọc qua một lượt rồi chậm rãi hỏi: “Tử Hà viết cho ngươi đấy ư?”
Vũ Tuyên không đáp, chỉ đứng lặng nhìn Hoàng Tử Hà.
Hoàng Tử Hà gật đầu, “Đây là… nét chữ của ta.”
Vũ Tuyên nhắm mắt lại, gật mạnh đầu.
Lý Thư Bạch săm soi kiểu chữ, thong thả vặn lại: “Trong thiên hạ kẻ tập theo thư pháp Vệ phu nhân rất nhiều, sao dám khẳng định đây là chữ của ngươi?”
Hoàng Tử Hà khẽ đáp: “Vì… từ nhỏ mỗi khi viết bộ ‘hiệt’ (頁), ta hay viết thiếu hai nét ngang ở giữa. Tuy biết thế nhưng cố tật không sửa được, đành phải thêm vào, nên có dấu vết viết thêm.”
Trên giấy có ba chữ bộ ‘hiệt’, đều có dấu vết viết thêm.
“Nhưng nét chữ của ta, phong thư ta viết, sao ta chẳng biết gì cả…” Cả người Hoàng Tử Hà rũ ra như thể sức lực toàn thân bị rút cạn. Cô phải vịn vào chiếc ghế bên cạnh, từ từ ngồi xuống, hoang mang.
“Đây là phong thư thứ hai muội gửi cho ta kể từ sau khi vụ án xảy ra.” Vũ Tuyên bình thản nói, “Sau khi cha mẹ nuôi qua đời, muội trốn khỏi Thành Đô, một hôm ta từ chỗ Tề Đằng trở về thì thấy nó trên bàn. Chẳng biết từ đâu ra, cũng chẳng biết muội gửi cho ta bằng cách nào, nhưng ta nghĩ, hẳn muội có ý thừa nhận tội trạng, quyết từ giã cõi đời.”
Lý Thư Bạch xem kỹ nội dung bức thư rồi lạnh nhạt nhận xét: “Ta chỉ thấy bức thư này có ý từ giã cõi đời, chẳng thấy chỗ nào là thừa nhận tội trạng cả.”
Vũ Tuyên lặng thinh, Hoàng Tử Hà nghẹn ngào hỏi: “Chẳng lẽ ‘hai tay vấy máu’ không phải là thừa nhận ư?”
“Bức thư này còn rất nhiều nghi vấn, chúng ta phải cân nhắc kỹ rồi hẵng kết luận.” Lý Thư Bạch bình tĩnh gập tờ giấy lại, bỏ vào phong bì, giọng nói còn thản nhiên hơn cả thái độ.
Vũ Tuyên chỉ nhìn Hoàng Tử Hà, khàn khàn nói: “Ta giữ bức thư này hơn nửa năm nay, chưa hề tiết lộ với ai. Hôm nay trao lại cho muội, nếu muội thật sự cho rằng mình… cho rằng Hoàng Tử Hà vô tội, thì hãy tiếp tục điều tra để cho ta, cũng là cho bản thân mình một câu trả lời.”
Hoàng Tử Hà nhét phong thư trong ngực áo, theo Lý Thư Bạch về nha môn Thành Đô.
Vừa đến nơi đã thấy Chu Tử Tần đang ngồi một tay cầm bánh bao, tay kia cầm chiếc vòng chạm đôi cá ngắm nghía, vẻ mặt rạng rỡ.
Hoàng Tử Hà cảm thấy góc bì thư đang đâm vào da thịt mình, khiến cô vừa bất lực, vừa hoang mang.
Lý Thư Bạch tiếu phi tiếu liếc sang, thấy Hoàng Tử Hà thẫn thờ, y chợt ghé tai cô hỏi nhỏ: “Ngươi bảo khi nào thì nên nói sự thật với Tử Tần?”
Nghe ra ý tứ trêu chọc, Hoàng Tử Hà chợt thấy tảng đá đè nặng lên ngực mình dường như cũng nhẹ bớt mấy phần, vô thức cự lại: “Kiếp sau đi!”
“Kiếp sau gì cơ?” Chu Tử Tần thính tai nghe lọt câu này. Hắn đứng phắt dậy đi về phía họ: “Các vị lề mề quá, ta đợi lâu lắm rồi đấy.”
Lý Thư Bạch liếc chiếc vòng trên tay gã: “Đợi chúng ta có việc gì?”
“Thi thể Thang Châu Nương đã đưa đến đây, cũng tìm được mấy người quen của bà ta ở Long Châu rồi, chúng ta mau đi tra xét xem!”
Nói đoạn, Chu Tử Tần tay cầm vòng tay cầm bánh bao, vừa ăn vừa đi ra ngoài. Đầu bếp ló ra trông thấy hắn bèn gọi rối rít: “Bổ đầu, bổ đầu! Có bánh gạo này, lấy cái nữa nhé?”
“Ta thích bánh gạo lắm đấy!” Chu Tử Tần mừng như bắt được vàng, vội nhét ngay vòng vào ngực áo để rảnh tay cầm bánh gạo.
“Chào Tử Tần, sớm quá nhỉ.” Bên cạnh chợt có người cười nói.
Chu Tử Tần ngoái lại, ra là Tề Đằng đang bưng một chồng công văn, hẳn đến bàn việc công. Gã lập tức nhét bánh bao vào miệng, chắp tay chào: “Ề ại a!”
“Tay đệ bẩn thế kia lại cầm vào bánh gạo!” Tề Đằng đùa rồi giật ngay cái bánh gạo trên tay hắn, nhưng cũng không ăn, chỉ nhìn chằm chằm vào tay họ Chu: “Tay dính đầy bột gạo kìa, đệ định cứ để thế mà đi điều tra à?”
“Ồ…” Chu Tử Tần chớp chớp mắt, còn đang mải ngắm bột gạo trên tay thì Tề Đằng đã ném cái bánh gạo xuống rãnh nước bẩn, lại múc một gáo nước cạnh đó gọi: “Lại đây rửa tay.”
Chu Tử Tần xấu hổ, vội từ chối: “Đệ… Để đệ tự…”
“Được rồi, đệ sắp thành anh vợ ta còn gì.” Tề Đằng vừa nói vừa giội liên tiếp hai ba gáo nước, đến khi tay Tử Tần sạch bong mới chịu buông tha, quăng gáo dặn dò: “Tử Tần có biết đồ dùng của phụ nữ bẩn thế nào không? Đệ không nhìn thấy thôi, bề mặt dính toàn thứ bẩn thỉu đấy. Ta có một người bạn, thường mân mê chiếc vòng của người yêu mà âm thầm tưởng nhớ, một lần mải xem chưa rửa tay đã cầm trái cây ăn, kết quả vừa nôn mửa vừa đi tả, suýt mất mạng. Về sau mới biết người yêu của huynh ấy mua cái vòng từ tiệm cầm đồ, nghe nói là mấy tên vô lại đáng chết tháo nó từ tay một cái thây chết trôi đem đi cầm, đệ giữ khư khư vật này bên mình, còn vừa cầm xem vừa ăn, chẳng phải bẩn lắm ư?”
Chu Tử Tần cười gượng, sờ sờ chiếc vòng qua lớp áo: “Tề đại ca, chiếc vòng này của đệ… còn mới, không phải lấy từ xác chết trôi đâu…”
“Cẩn thận vẫn hơn! Chiều nay ta rảnh, để ta dắt đệ lên núi Minh Nguyệt xin Mộc Thiện đại sư ít tịnh thuỷ, thanh tẩy cái vòng này!”
Nói rồi hắn lại bưng chồng công văn lên đi thẳng vào nha môn.
Chu Tử Tần lè lưỡi lẩm bẩm: “Sao lúc trước không nhận ra huynh ấy mắc bệnh sạch sẽ nhỉ…”
Hoàng Tử Hà nhìn chiếc bánh gạo bị ném rãnh rồi trầm tư ngẩng lên, gặp ngay ánh mắt Lý Thư Bạch.
Tự biết y chắc chắn không làm chuyện ấy, cô bèn nhăn mặt gật đầu.
Ba người vừa đi ra, chợt Hoàng Tử Hà ối một tiếng, cáu kỉnh vẩy chân lia lịa: “Giẫm phải phân chó rồi.”
Chu Tử Tần quan tâm hỏi: “Không sao chứ?”
“Không sao, may mà khô rồi, để ta ra rãnh nước cọ đi.”
Đoạn cô chạy thẳng về phía rãnh nước bẩn. Chu Tử Tần ơi ới gọi với theo: “Nhanh lên nhé, ta đợi.”
“Không cần đợi, chúng ta đến tàu ngựa trước.” Lý Thư Bạch nói rồi xăm xăm đi thẳng.
Chu Tử Tần ngoái lại nhìn cô, rồi hấp tấp đuổi theo y.
Hoàng Tử Hà đến bên rãnh nước, vờ cọ đế giày, nhưng mắt lại đảo quanh, thấy không có ai bèn nhặt một cành cây dưới đất chọc vào miếng bánh gạo vớt lên. May mà bánh gạo rơi xuống tảng đá nên chưa bị chảy nhũn ra.
Cô ngắt một lá cải thảo, bọc bánh gạo vào cầm trong tay đi đến tàu ngựa gặp Lý Thư Bạch và Chu Tử Tần.
Địch Ác vẫn đang được vỗ béo, vừa đắc ý ăn đậu vừa hằm hè bắt nạt những con ngựa khác. Cạnh đó là Na Phất Sa đang nằm giữa đống cỏ dưỡng thương, giương cặp mắt to nhìn quanh.
Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà tuy đã hoá trang, nhưng sợ Địch Ác nhận ra mùi nên cố ý đi đến tàu ngựa đối diện, chọn hai con ngựa bình thường.
Đúng lúc họ cưỡi ngựa băng qua đường thì một con chó gầy gò dữ tợn từ trong ngõ lao ra sủa inh ỏi. Đang muốn ngủ lại có người dâng gối, Hoàng Tử Hà tiện tay ném bánh gạo gói trong lá cải thảo ra. Con chó nọ hít hít mấy cái rồi ngoạm một miếng, ăn cả lớp lá bọc ngoài.
Chu Tử Tần càu nhàu: “Ta không đời nào cho chó dữ ăn!”
Hoàng Tử Hà đáp: “Ta đang cần một con chó.”
“Để làm gì thế?”
“Mũi chó rất thính, nếu huấn luyện thuần thục có thể hỗ trợ phá án. Nhìn dáng dấp con này, chính là giống chó Tế thuần chủng đó.” (Giống chó săn ở Trung Quốc thời xưa)
Chu Tử Tần tức thì quay sang bảo thuộc hạ: “A Trác, mau bắt lấy nó!”
Bởi vậy, khi họ đến nghĩa địa, đã thành ra ba người và một con chó.
Lão quản trang trông thấy con chó gầy gò bẩn thỉu thì bật cười: “Thiếu bổ đầu muốn nuôi chó thì bảo ta, con chó nhà ta mới đẻ mấy con, đẹp hơn con này nhiều!”
“Lão thì hiểu gì? Nhìn con chó này đi, là giống chó Tế thuần chủng đấy!” Chu Tử Tần kéo dây buộc cổ, buộc nó vào cửa.
Ông lão không dám tin vào mắt mình, vội ngồi thụp xuống nhìn thẳng vào mắt con chó, hồi lâu mới làu bàu: “Con này mà cũng gọi là chó Tế à? Rõ ràng là chó cỏ.”
Chu Tử Tần sải bước vào nghĩa địa, thấy trong nhà xác đặt một thi thể phủ vải trắng, mấy bổ khoái đang đứng đó huyên thuyên, bên cạnh là mấy ông già bà cả mặt mày ủ rũ, hẳn là người thân của Thang Châu Nương.
Chu Tử Tần nhanh nhẹn mở hòm đồ nghề ra, đeo găng tay vào, bắt đầu kiểm tra vết thương của Thang Châu Nương. Tay chân bà ta gãy nát, đầu bê bết máu, quả là bị ngã núi. Gương mặt cũng giập nát, chỉ còn nốt ruồi sau tai chứng minh thân phận.
“Đây là những thứ bà ta mang trên người khi rơi xuống núi.” Các bổ khoái trình lên một tay nải.
Chu Tử Tần thuận tay mở xem, thấy chỉ có mấy bộ đồ để thay và một ít tiền lẻ. Gã bèn bỏ đó nhận xét: “Xem ra quả là đi đường sẩy chân ngã xuống núi.”
Hoàng Tử Hà sực nhớ ra một chuyện, bèn hỏi: “Bà ta chết từ khi nào?”
“Sáng hôm qua, khoảng… giờ Mão.”
Giờ Mão. Hoàng Tử Hà nhớ ngay đến việc Trương Hàng Anh va vào một thớt ngựa phi như bay, bị hất văng xuống núi, áng chừng cũng khoảng giờ Mão hôm qua.
“Phải rồi, Tử Tần, nghe nói gần đây vì chuyện Quỳ vương bị hành thích nên suốt dọc đường núi từ phủ Thành Đô đến Hán Châu đều có quân Tây Xuyên canh gác, dân chúng muốn vào cũng rất khó khăn đúng không?”
“Đúng thế, đoạn đường đó vốn tấp nập lái buôn, giờ quân Tây Xuyên lại nghiêm cấm cưỡi ngựa hoặc ngồi xe ngựa ra vào, những người đi bộ còn phải khám người, dân chúng oán than không ngớt.” Chu Tử Tần sực nhớ ra một chuyện: “Chẳng biết Trương nhị ca đã đến Hán Châu chưa? Trương nhị ca thật đáng thương, thiên hạ rộng lớn, biển người mênh mang, biết đi đây tìm Tích Thuý đây!”
Hoàng Tử Hà ngồi xuống quan sát vết thương của Thang Châu Nương, thấy gáy bà ta cũng bị giập nát, quả là thê thảm không nỡ nhìn, bèn đứng dậy quay sang hỏi Chu Tử Tần: “Công tử có muốn biết Trương nhị ca bây giờ ở đây không? Hay để ta tiết lộ nhé?”
“Ta không tin!” Chu Tử Tần hừ mũi: “Lẽ nào Sùng Cổ có thiên lý nhãn thuận phong nhĩ, nắm được mọi hành động của Trương nhị ca ở tít tận Hán Châu ư?”
Hoàng Tử Hà cười đáp: “Tin hay không thì tuỳ. Ta chẳng những biết Trương nhị ca ở đâu, mà còn biết tay phải huynh ấy trật khớp, đang ở quán trọ sắc thuốc đấy…”
Chu Tử Tần nhảy dựng lên: “Gì cơ? Trương nhị ca bị thương, còn ở quán trọ sắc thuốc à?”
“Đừng cuống, không phải sắc thuốc cho mình, không nghiêm trọng thế đâu.” Vừa nói cô vừa mở tay nải xem kỹ kiểu dáng và hoa văn quần áo của Thang Châu Nương. Chu Tử Tần nóng ruột, đành quay sang nắm tay áo Lý Thư Bạch nài nỉ: “Vương huynh cho ta biết đi, là chuyện gì thế?”
Lý Thư Bạch nhìn Hoàng Tử Hà: “Muốn biết thì trưa nay theo chúng ta.”
“Hai người… Các vị đúng là muốn làm ta tức chết mà!” Thấy Chu Tử Tần như kiến bò chảo nóng, Hoàng Tử Hà bất giác nhoẻn cười nhìn Lý Thư Bạch vẻ tán thưởng.
Thang Châu Nương goá chồng từ khi còn trẻ, người thân quen đến đây cũng chỉ có một đứa cháu và hai ba láng giềng.
Một người hàng xóm gầy gò ăn mặc chỉnh tề, tay đeo nhẫn vàng, cười rất khó coi: “Tiểu nhân là lý chính phố Tùng Hoa. Thang Châu Nương vốn dĩ là người Thành Đô, 17 tuổi gả đến Hán Châu. Vợ ta quen biết bà ấy từ nhỏ, có kể rằng chồng bà ta mất sớm, cuộc sống rất khổ sở, phải đi làm công nhặt nhạnh từng đồng. Về sau thấy Phó nương tử loan tin muốn tìm người làm, ta bèn bảo vợ ta, người ta trông có vẻ tử tế, chắc cũng không khó hầu hạ, lương tháng nhiều mà việc lại nhẹ, bà thử hỏi Thang Châu Nương xem, nếu muốn làm thì để ta giới thiệu.”
“Nói vậy thì ông chính là người giới thiệu Thang Châu Nương cho Phó Tân Nguyễn?”
“Đúng thế. Nào ngờ mới được 1 năm lại xảy ra chuyện… Nhắc tới chuyện ấy, ta với vợ ta vẫn còn hối hận. Mọi người đều nói gian nhà đó có vấn đề, chẳng những có hai người tự sát bên trong, mà ngay cả Thang Châu Nương cũng gặp nạn bỏ mạng, chẳng phải quái dị lắm ư!”
Hoàng Tử Hà thấy sau lưng ông ta là một phụ nữ béo lùn phúc hậu, đang cúi đầu vò chiếc khăn tay, bèn hỏi: “Kia là người nhà ông ư?”
“Là vợ ta đấy, Thang Châu Nương lúc trước là hàng xóm của bà ấy.”
Hoàng Tử Hà liền hỏi bà ta: “Thang Châu Nương làm u già trong nhà họ Phó có kể chuyện gì không?”
Người đàn bà kia rõ ràng còn chưa hết kinh hãi trước thi thể giập nát đáng sợ của Thang Châu Nương, lấy khăn tay chạm nước mắt nghẹn ngào đáp: “Không có. Ngày lễ tết bà ấy thường đem quà cáp cảm tạ bọn ta đã giới thiệu cho chỗ làm tốt. Nghe nói… Nghe nói Phó nương tử rất ôn hoà, đồ ăn thức mặc đồ chia cho và ấy một phần, chưa bao giờ cắt xén tiền lương, công việc hằng ngày cũng nhàn nhã, chỉ quét tước dọn dẹp, lo ba bữa cơm mà thôi.”
“Có bao giờ bà ấy nhắc đến khách khứa qua lại với Phó nương tử không?”
“Thưa không… Lúc trước Phó nương tử nhờ chúng ta tìm người, cũng nói phải tìm người kín miệng, chắc hẳn Thang Châu Nương được dặn dò nên không bao giờ nói mấy chuyện đó. Huống hồ… Huống hồ cô ấy là người trong làng ca múa, chúng ta làm sao dò hỏi về khách khứa nhà người ta được?”
Hoàng Tử Hà cho hai vợ chồng lý chính lui xuống, hỏi đến người tiếp theo.
Là một phụ nữ trung niên mặt mày vàng vọt, đeo tạp dề xanh, búi tóc cắm một cây trâm bạc bám bụi. Trông bà ta hết sức lúng túng, tay chân lóng ngóng chẳng biết đặt vào đâu, rõ ràng chưa bao giờ gặp phải chuyện này: “Ta… Nhà ta ở ngõ Điền Gia Hàn Châu, xéo nhà Thang Châu Nương. Năm 17 tuổi tỷ ấy được gả đến đó, hai chúng ta xấp xỉ tuổi nhau, nhà cũng gần, tính ra thì ta còn phải gọi tỷ ấy là chị dâu.”
“Gần đây Thang Châu Nương có về ngõ Điền Gia không? Có nói gì với bà không?”
“Tháng trước có về, còn mừng rỡ khoe Phó nương tử nhà mình sắp thành thân. Ta buột miệng nói hạng người đó đời nào gả được vào nhà tử tế, không ngờ tỷ ấy kể rằng đám đó rất tốt, lang quân tuy từng kết hôn, nhưng không có con cái, tuổi cũng còn trẻ, gia cảnh lại khá, Phó nương tử gả vào đó quả là phúc phận mấy đời.”
“Bà ấy có kể gì về vị lang quân kia không?”
“Không… Ta… Ta quan tâm tới chủ của tỷ ấy làm gì chứ? Huống hồ chúng ta chỉ trò chuyện được mấy câu thì cháu đằng nhà mẹ của tỷ ấy đến, ta cũng vội về nhà nấu cơm, thật không ngờ… đó lại là lần gặp cuối cùng…”
Thấy bà ta líu ríu kể lể, Chu Tử Tần bèn cho lui rồi gọi cháu của Thang Châu Nương lại.
Cháu Thang Châu Nương tên gọi là Thang Thăng, chừng hơn 20 tuổi, bộ dạng lông bông, mỗi khi cười trông mặt như bị rút gân, nhìn kiểu gì cũng thấy đáng ghét.
“Cô ta ấy hả? Phải phải, tháng trước ta có gặp, xin bà ấy cho thêm chút tiền cưới vợ. Ai ngờ bà ấy chỉ nặn ra có hai quan tiền, chậc chậc…” Thang Thăng vung vẩy túi tiền, tỏ vẻ xem thường, “Làm người hầu trong nhà tử tế đã chẳng phải chuyện hay ho gì, huống hồ bà ấy lại hầu hạ một kỹ nữ Dương Châu, mất mặt biết chừng nào! Nếu không nể tình bà ấy đánh cho hôn thê của ta một đôi trâm bạc, ta còn chẳng muốn nhìn mặt!”
Hoàng Tử Hà hỏi: “Chuyện đánh dôi trâm bạc là thế nào?”
“Chuyện từ lâu rồi mà, chẳng phải bà ấy và ả kỹ nữ kia đều chết cả rồi ư? Hôm đó cô ta vừa thu dọn mọi thứ xong xuôi đi ra ngõ thì gặp ta đi về. Nhà ta ở ngay ngõ Song Hỉ bên cạnh.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, thầm hiểu đó chính là nhà mẹ đẻ Thang Châu Nương.
“Thấy ta, bà ấy vội gọi giật lại rồi lục tìm trong tay nải, bảo có thứ cho ta. Ta còn tưởng là cái gì hay ho, bèn đứng đợi. Bà ấy lục lọi một hồi, ta thấy bà ấy lôi túi tiền ra được nửa chừng thì lại nhét vào nói, để ta đem về Hán Châu, đánh một đôi trâm bạc cho vợ chưa cưới của cháu nhé. Ta cứ tưởng thật, nhưng về nhà nghĩ lại mới thấy bà ấy lừa mình. Tiệm bạc trong phủ Thành Đô nhiều vô số, nếu có lòng thì việc gì phải lặn lội đi tận Hán Châu mới đánh được, rõ ràng là tiếc tiền, chỉ đãi bôi với ta thôi.” (Đãi bôi: bên ngoài niềm nở, bên trong xảo trá/ ý nói không thật tình)
Hoàng Tử Hà ngừng ghi chép, xem lại biên bản một lượt rồi hỏi: “Cô ngươi lúc đó đã nói: ‘Để ta đem về Hán Châu, đánh một đôi trâm bạc cho vợ chưa cưới của cháu nhé’ đúng không?”
“Đúng thế.” Thang Thăng gật đầu, “Sau khi về nhà ta đã nhẩm đi nhẩm lại câu này mấy trăm lần, không sai một chữ, càng nghĩ càng thấy giả tạo.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Bà ấy có kể chuyện gì với các ngươi không? Ví như những người Phó nương tử thường qua lại, hay cuộc sống thường ngày chẳng hạn?”
“Không hề, bà ấy lấy chồng mấy chục năm rồi, có về nhà cũng chỉ là về thăm bà nội ta. Giờ bà nội ta già rồi, chẳng khác gì phỗng đá, nói gì cũng không nghe thấy, mỗi tháng bà ấy chỉ đáo qua biếu bà nội ít tiền, thế thôi.”
Xem ra Thang Châu Nương sống cũng chẳng sung sướng gì, họ hàng không ai đến nhận xác, chỉ có đứa cháu trai ngó qua thi thể một lượt rồi xác nhận: “Chắc là đúng rồi. Ôi chà, nhà chồng bà ấy hết người hay sao mà gọi nhà mẹ đẻ đến nhận xác?”
Chu Tử Tần chen vào: “Nếu nhà chồng bà ấy còn người thì gian nhà họ đã bị thu lại rồi, chứ còn đến bây giờ à?”
Thang Thăng nghe vậy thì sáng mắt lên: “Nhà bà ấy chưa bị thu hồi à?”
Hoàng Tử Hà lạnh nhạt đáp: “Người chết không con cái, nếu hàng cháu đứng ra lo liệu việc chôn cất thì có thể kế thừa sản nghiệp.”
Thang Thăng vội nói ngay: “Ta là cháu ruột bà ấy, sửa soạn tang ma cho cô mình cũng là việc nên làm.”
“Vậy thì tốt, ngươi về lo mua quan quách, chọn sẵn đất chôn đi. Chừng nào chôn cất xong xuôi thì đến nha môn lấy giấy tờ đất.”
Sau khi tống tiễn Thang Thăng, Chu Tử Tần hỏi Hoàng Tử Hà: “Triều ta có luật này ư?”
Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Không có. Nhưng công tử có thấy, vừa nghe nói còn một gian nhà, ‘bà ấy’ đã lập tức biến thành ‘cô mình’ hay không?”
Chu Tử Tần hậm hực: “Tốt nhất là nghĩ ra cách gì đó khiến hạng người này xôi hỏng bỏng không.”
“Được được, gian nhà nát trong hẻm ở Hán Châu, trừ chi phí tang ma thì chỉ bằng một đôi trâm bạc thôi.” Nói rồi, Hoàng Tử Hà đọc lại bản khai của mấy người kia một lượt.
Chu Tử Tần sốt ruột hỏi: “Tiếp theo đây Sùng Cổ rảnh không? Mau nói cho ta biết Trương nhị ca thế nào rồi?”
“Đừng nôn nóng, dẫn công tử đến xem là biết mà.” Hoàng Tử Hà sắp xếp biên bản lời khai vừa ghi rồi gập lại.
Bấy giờ Lý Thư Bạch mới vươn tay cầm lấy giở ra săm soi nét chữ của cô.
Vẫn là những con chữ y đã quen, thể tiểu khải trâm hoa, thanh nhã tú lệ, nhưng vì viết nhanh nên hạ bút và thu bút đều khá vội vã.
Lý Thư Bạch nhíu mày, nhìn lướt qua mấy hàng chữ, ánh mắt bỗng lạnh băng.
Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Sao thế?”
Y trả bản lời khai lại cho cô, “Quan tâm quá ắt loạn, dính dáng đến người nhà, quả nhiên ngươi không giữ được bình tĩnh.”
Hoàng Tử Hà cau mày, giở ra xem lại.
Chu Tử Tần ngồi bên hỏi ngay: “Gì cơ? Vụ này dính dáng đến người nhà ai vậy? Không phải là tên Thang Thăng kia chứ?”
Lý Thư Bạch gật đầu, thuận miệng đáp: “Chính xác.”
Hoàng Tử Hà lật xem những hàng chữ mình viết, gắng nén kinh sợ, nhưng ánh mắt vẫn lộ ra vẻ bàng hoàng pha lẫn hồ nghi, bất giác bước chậm hẳn.
Lý Thư Bạch ngoái nhìn, dừng một lát rồi đi đến bên cạnh, vỗ nhẹ vào vai cô: “Đến phủ quận thú hẵng so lại.”
Cô miễn cưỡng gật đầu, gập bản lời khai lại, như trốn tránh.
Thấy ba người ra khỏi nghĩa địa, con chó xấu xí gầy gò bẩn thỉu mừng rỡ nhảy lên sủa ầm ĩ.
Hoàng Tử Hà nhìn sắc trời, lại nhìn sang con chó, vẻ ngạc nhiên.
Lý Thư Bạch ghé tai thì thầm: “Không ngờ ngươi cũng có lúc tính lầm.”
Hoàng Tử Hà lườm y: “Ta nói nuôi con chó này để giúp tra án thôi mà!” Mấy bổ khoái cưỡi ngựa dắt theo một con chó xấu xí chạy rầm rập qua phố khiến người đi đường đều liếc mắt nhìn, có kẻ thấy con chó kia thì che miệng cười thầm, có người lại cười phá lên hỏi Chu Tử Tần: “Chu thiếu bổ đầu, con chó này mắc tội gì mà bị cả đám bổ khoái các vị giải đi diễu phố vậy?”
“Phì, bổ đầu đại gia ta nuôi chó Tế giúp phá án, mắt mũi các ngươi để đâu thế hả?”
“Ra là chó Tế của bổ đầu, sao giống chó cỏ thế?”
“Hahaha… nhìn thân mình nó dính đầy bùn đất, ngươi nhận ra được hình dạng thật à? Không chừng tắm rửa sạch sẽ lại đúng là chó Tế ấy chứ?”
“Nếu đúng là chó Tế, ta sẽ nuốt sống nó!”
Đi đến góc phố, đúng chỗ Nhị cô nương nọ bày bán thịt dê, vừa trông thấy con chó, cô ta bèn quăng cho nó một dẻ sườn. Con chó mừng rỡ lao ngay đến, khiến Chu Tử Tần đang dắt nó suýt ngã nhào, còn đang loạng choạng đã bị nó kéo xềnh xệch đến trước sạp thịt, không kịp thu chân lại, cả người va vào sạp đánh rầm, khuỵu xuống.
Nhị cô nương cầm dao chặt xương cười cười nhìn gã: “Chu thiếu bổ đầu việc gì phải hành đại lễ như thế?”
Chu Tử Tần bưng cái mũi nhức nhói, đau ứa nước mắt: “Nhị cô nương, chẳng phải ta đã bảo cô không được bày sạp giữa phố hay sao? Dù gì… dù gì cũng đừng chìa ra mặt đường thế chứ?”
Nhị cô nương thản nhiên đẩy xe thịt dạt vào bên đường chừng hai ba thước rồi châm chọc: “Ta có dạt vào đây thì Chu thiếu bổ đầu vẫn quỳ mọp trước mặt ta thôi.”
Chu Tử Tần nhăn mặt: “Ít ra… cũng không tha thiết quỳ sụp trước gấu váy cô như thế.”
Nhị cô nương kéo gấu váy đã cũ, trừng mắt lườm gã rồi nhặt một dẻ sườn to hơn quăng ra: “Đi!”
Con chó mừng như điên, lao vọt tới, Chu Tử Tần đang bò lồm cồm dưới đất bị nó kéo lê đi hơn hai trượng, cuối cùng tóm được một thân cây, buộc nghiến nó lại mới thôi.
Trong tiếng cười ồ của cả con phố, Chu Tử Tần tức tối gỡ phăng sợi thừng buộc cổ chó khỏi tay, xoa xoa khuỷu tay và đầu gối xước xát, xông đến trước mặt Nhị cô nương, vỗ sạp thịt hùng hổ: “Cô!”
Nhị cô nương vớ ngay con dao chặt xương, bình thản nhìn gã: “Ta làm sao?”
Chu Tử Tần nhìn con dao rồi lại nhìn gương mặt trắng trẻo thanh tú của Nhị cô nương, há miệng ra, rồi lúng túng giơ tay lên, lùi lại: “Ta… Ta chỉ định bảo, sau này cô bày sạp ở đây được rồi, đừng chìa ra phố chắn đường người ngựa qua lại.”
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!