Truy Tìm Bức Tranh Thánh - Chương 13
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
178


Truy Tìm Bức Tranh Thánh


Chương 13


– Scott, anh không phải là người xấu. Không hề là người xấu.

Robin nói. Cô vẫn đứng cạnh cây đàn công trơ bass suốt trong lúc Adam kể lại câu chuyện.

– Hoặc là anh nói dối rất giỏi, hoặc là tôi đã bị lầm.

Adam mỉm cười với cô gái khổng lồ đang cầm cây mã vĩ trong tay phải như cầm một cái bàn chải đánh răng.

– Tôi có được phép nhìn bức tranh Thánh đó một chút không, hay là anh chỉ bịa thôi.

Adam nhảy ra khỏi giường và rút cái gói đựng bức tranh Thánh ra khỏi túi đựng bản đồ của cái áo khoác dã chiến ra. Robin dựa vào cây đàn công trơ bass vào tường rồi dựa cây mã vĩ vào cây đàn, sau đó ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng.

Adam đưa bức tranh Thánh cho cô xem. Cô gái nhìn đăm đăm khuôn mặt Thánh George hồi lâu, cuối cùng thốt lên:

– Quả là một tuyệt tác. Và tôi có thể hiểu là bất cứ ai cũng muốn có được bức tranh này. Nhưng không bức tranh nào có thể đáng giá như những điều rắc rối mà anh vừa trải qua.

Adam nói:

– Tôi cũng nghĩ là điều đó thật khó hiểu. Nhưng Rosenbaum, hoặc dẫu hắn có một cái tên nào khác đi chăng nữa thì thực tế đã hai lần muốn giết người để đặt tay lên bức tranh Thánh này, và hắn đã làm tôi tin rằng nếu còn giữ bức tranh này thì tôi se là nạn nhân tiếp theo.

Robin tiếp tục nhìn những mảnh vàng, đỏ, xanh lơ làm nên Thánh George và Con Rồng. Cô hỏi:

– Không có manh mối gì khác nữa hay sao?

– Chỉ có một bức thư do Goering gửi cho tôi.

Robin lật bức tranh lại:

– Cái này nghĩa là gì?

Cô chỉ vào vành vương miện nhỏ khảm trong khung gỗ.

– Điều đó chứng tỏ rằng bức tranh này đã từng là vật sở hữu của Sa hoàng – đó là theo lời ông chuyên gia của Sotheby. Ông ta còn nói với tôi rằng nhờ vậy mà giá trị của bức tranh tăng lên đáng kể.

Robin nói và đưa trả bức tranh lại cho Adam:

– Vẫn không đáng phải giết những hai mạng người. Vậy Thánh George còn giấu điều bí mật gì khác nữa hay không?

Adam nhún vai và nhăn mặt. Chính anh cũng đã tự hỏi mình câu ấy không biết bao nhiêu lần kể từ sau cái chết của Heidi. Anh im lặng bỏ bức tranh vào túi áo khoác.

Robin hỏi:

– Vậy nếu vẫn còn thức thì kế hoạch của anh là làm gì? Ngoài việc chuẩn bị một cái giường ra?

Adam mỉm cười:

– Tôi hy vọng gọi Lawrence một lần nữa, lúc này chắc chắn là anh ấy có nhà và kiểm tra xem anh ấy có tin tức gì mới cho tôi không. Nếu anh ấy chưa về hoặc không thể giúp gì cho tôi, thì tôi sẽ thuê một cái xe và cố vượt biên giới Thụy sĩ sang Pháp sau đó về Anh. Tôi cảm thấy chắc chắn là cảnh sát Thụy sĩ cũng như người của Rosenbaum đã rình đầy cả sân bay và các ga xe lửa rồi.

Robin nói:

– Nhất định là Rosenbaum cũng đã nghĩ ra điều đó, nếu như hắn chỉ cần giỏi bằng một nửa anh kể thôi. Vì vậy tốt nhất là cố liên lạc với anh bạn Lawrence của anh và xem anh ấy có ý kiến gì sáng suốt hơn không.

Cô đứng dậy và đi về phía máy điện thoại.

Adam lưỡng lự nói:

– Cô không nên tham gia vào chuyện này.

Robin nói:

– Tôi đã tham gia vào rồi. Và tôi có thể nói với anh là như vậy thú vị hơn Bản giao hưởng Vô tận của Schubert nhiều. Bao giờ bạn anh nhấc điện thoại thì tôi sẽ chuyển máy cho anh, như vậy sẽ không có ai nhận ra ai đang gọi điện thoại.

Adam đọc cho cô số điện thoại của căn hộ, cô yêu cầu cô gái trực tổng đài nối máy.

Adam nhìn đồng hồ: Mười một giờ bốn lăm. Chắc chắn lúc này Lawrence đã phải về nhà? Phải hai hồi chuông mới có người cầm máy. Nhận ra tiếng đàn ông Robin chuyển ngay máy cho Adam.

Giọng nói hỏi:

– Alô, ai đấy?

Adam nhớ ra một điều thật kỳ quặc là Lawrence không bao giờ xưng tên.

– Lawrence, Tớ đây mà.

– Cậu đang ở đâu?

– Tớ vẫn ở Geneva.

– Khách hàng của tớ đã chờ cậu lúc mười một giờ sáng này!

– Vậy thì đó chính là Rosenbaum.

– Rosenbaum là ai?

– Một con quái vật cao một mét tám, tóc vàng, mắt xanh và dường như quyết tâm giết tớ.

Lawrence không nói hồi lâu:

– Vậy cậu vẫn giữ bức tranh Thánh đấy chứ?

Adam nói:

– Tớ vẫn giữ. Nhưng có điều gì có thể quan trọng đến thế về…?

– Hãy đặt ống nghe xuống và gọi lại cho tớ sau ba phút nữa.

Đường dây tắt ngấm. Adam không thể không nhận ra sự thay đổi đột ngột trong cung cách của bạn mình. Trong những tháng ở chung nhà với Lawrence, anh đã bỏ qua điều gì nhỉ? Adam cố nhớ lại từng chi tiết mà trước đây anh từng coi là không quan trọng và Lawrence đã che giấu một cách rất khéo léo.

Robin hỏi, cắt ngang dòng suy nghĩ của anh:

– Mọi chuyện ổn chứ?

Adam nói, hơi có vẻ bí mật:

– Tôi nghĩ là như vậy. Anh ấy yêu cầu ba phút nữa gọi lại. Như vậy có vấn đề gì cho cô không?

– Chuyến đi này đã tiêu tốn tám nghìn bảng của người đóng thuế rồi. Vậy thì một hai cuộc điện thoại quốc tế thì có gì khác đi đâu.

Ba phút sau Robin cầm ống nghe lên và nhắc lại số cũ. Ngay tiếng chuông đầu tiên Lawrence đã trả lời.

Lawrence nói:

– Cậu chỉ trả lời những câu hỏi của tôi thôi nhé.

Adam bắt đầu tức giận vì cung cách của Lawrence. Anh nói:

– Không, tớ sẽ không trả lời các câu hỏi của cậu. Cậu sẽ trả lời một hai câu trước khi có thể biết thêm bất cứ gì từ tớ. Tớ nói có rõ không?

Lawrence trả lời nhẹ nhàng hơn một tý:

– Được.

– Rosenbaum là ai?

Lawrence trả lời ngay.

Adam nói:

– Cậu sẽ không biết thêm gì nữa nếu cậu không nói thật.

– Theo những mô tả của cậu tớ có những lí do để tin Rosebaum là một người Nga tên thật là Alex Romanov.

– Một người Nga? Nhưng tại sao hắn ta lại muốn chiếm bức tranh Thánh của tớ?

Lawrence nói:

– Tớ không biết. Chúng tớ hy vọng cậu có thể cho chúng tớ biết lý do kia đấy.

– Chúng tớ là ai?

Một hồi im lặng lâu hơn.

Adam nhắc lại:

– Ai là chúng tớ? Thật sự là cậu không hòng là tớ sẽ tiếp tục tin là cậu làm việc ở DCO Barclays nữa đâu.

Lawrence nói:

– Tớ làm việc ở Bộ Ngoại giao.

– Với chức vụ gì?

– Tớ không được tự do…

– Lawrence, thôi đừng có ra vẻ tự cao nữa. Với chức vụ gì?

Lawrence lưỡng lự:

– Tớ là Phó của một bộ phận nhỏ hoạt động trên…

Adam nói:

– Tớ nghĩ gián điệp là từ người trần tục chúng tớ hay dùng. Và nếu cậu thích cái bức tranh Thánh ấy kinh khủng đến thế thì tốt hơn là hãy giúp tớ ra khỏi cái mớ lùng nhùng này mà vẫn sống, bởi vì Romanov hoàn toàn có ý định giết tớ để chiếm đoạt nó, điều này chắc chắn là cậu biết rõ.

– Cậu đang ở đâu?

– Khách sạn Richemond.

Lawrence hỏi nghe có vẻ ngờ vực:

– Trong một buồng điện thoại công cộng àh?

– Không, trong một phòng riêng.

– Nhưng không đăng kí tên cậu chứ?

– Không. Bằng tên một người bạn. Một cô bạn gái.

Lawrence hỏi:

– Lúc này cô ấy có ở cạnh cậu không?

Adam đáp:

– Có.

Lawrence nói:

– Quỷ quái. Được. Cậu không được rời phòng đó trước bảy giờ sáng, sau đó gọi lại cho tớ số này. Như vậy tớ sẽ đủ thời gian thu xếp mọi chuyện.

Adam nói:

– Đó là điều tốt nhất cậu có thể làm ư? – Nhưng điện thoại đã tắt ngấm.

Adam nói với Robin:

– Có vẻ như tôi sẽ phải làm cho cô chết ngạt đêm nay.

Robin nói:

– Ngược lại, chính tôi mới là người làm anh chết ngạt.

Nói rồi cô biến mất vào buồng tăm. Adam đi lại quanh phòng rất nhiều lần rồi mới ngồi xuống ghế xô pha. Hoặc là anh phải kê đầu lên thành ghế gỗ hoặc là phải gác chân gập lên thành ghế đằng kia. Lúc Robin quay ra với một bộ pijama màu xanh lơ thì anh quyết định là chỗ ngủ đêm của mình sẽ là trên sàn nhà.

Robin nói:

– Một cái ghế bành có lẽ không nhiều nhặn gì lắm phải không? Nhưng vì Cục Phản gián Anh không báo trước để tôi đặt sẵn một phòng đôi.

Cô chui vào giường và tắt đèn.

– Tuyệt.

Đó là lời cuối cùng cô lắp bắp.

Adam nằm ngửa trên sàn phòng ngủ, lấy một cái nệm ghế để làm gối và một cái áo choàng của khách sạn làm chăn. Anh ngủ chập chờn, đầu óc cứ hết luẩn quẩn vì tại sao bức tranh Thánh này lại quan trọng đến thế, rồi lại tại sao Lawrence biết nhiều đến thế và câu hỏi nữa trực tiếp hơn là không hiểu người ta sẽ làm thế nào giúp anh ra khỏi khách sạn, mà vẫn còn nguyên mạng sống.

Romanov kiên nhẫn chờ người ta nhấc ống nghe lên. Rồi một giọng nói cất lên, hắn nhận ra ngay lập tức.

– Tôi nghe đây.

Mấy từ duy nhất Romanov bật ra là:

– Hắn ở đâu?

Câu trả lời của Mentor cũng vỏn vẹn chỉ có bốn chữ, rồi điện thoại tắt ngấm.

Adam tỉnh dậy trước giờ hẹn gọi lại cho Lawrence một giờ. Anh nằm trên sàn nhà gần bốn mươi phút, chỉ có tiếng thở của Robin là nhắc cho anh biết anh không chỉ có một mình. Chợt anh nghe thấy một tiếng động lạ vẳng đến từ ngoài hành lang bên ngoài: hai ba bước chân nữa, dừng lại, rồi lại soạt nữa. Adam im lặng nhỏm người lên và rón rén bước ra cửa. Hơi thở của Robin vẫn đều đặn. Adam cầm chiếc giá treo áo nặng bằng gỗ ở cạnh bàn nắm chặt trong bàn tay phải, giơ lên cao quá đầu và đợi. Soạt, tiếng động lần này gần hơn – Soạc, rồi một tờ báo rơi vào trong khe cửa, tiếng bước chân lại tiếp tục. Adam không cần cúi xuống cũng thấy ảnh mình to tướng choán hết trang đầu của tờ Herald Tribune.

Anh cầm tờ báo đi vào buồng tắm khẽ đóng cửa lại, bật đèn và đọc bài báo. Đó là câu chuyện của ngày hôm qua, ghi lại những lời nhận xét của mấy sĩ quan chỉ huy cũ của anh và những lời yêu thương của mẹ. Adam cảm thấy vô cùng bất lực..

Anh rón rén quay lại chỗ Robin, hy vọng không làm cô tỉnh dậy. Anh đứng ngay ở đầu giường nhưng Robin vẫn không cựa quậy. Anh khẽ cầm điện thoại lên đem vào buồng tắm, khẽ đóng cửa lại rồi quay số gọi tổng đài.

Chuông vừa ngừng, Adam hỏi ngay:

– Lawrence, cậu đấy à?

Tiếng trả lời:

– Tớ đây.

– Bây giờ mọi chuyện càng trở nên tồi tệ hơn. Tớ vẫn trốn trong khách sạn này nhưng ảnh tớ in đầy trên trang nhất một tờ báo ở đây.

Lawrence nói:

– Tớ biết. Chúng tớ đã cố gắng ngăn việc đó lại nhưng người Thụy sĩ vẫn tiếp tục từ chối hợp tác.

Adam nói:

– Nếu vậy tớ sẽ tự nộp mình cho cảnh sát Thụy sĩ. Mẹ kiếp, đằng nào tớ cũng vô tội kia mà.

– Không, Adam. Ở Thụy sĩ cậu sẽ phải chứng minh là mình vô tội và bây giờ cậu phải hiểu rằng cậu đã dính dáng vào một việc còn quan trọng hơn hai vụ giết người rất nhiều.

Adam giận dữ hỏi:

– Còn việc gì quan trọng hơn hai vụ giết người nữa khi mà cả thế giới cho rằng tớ là kẻ giết người đó?

– Tớ hiểu rõ những gì cậu đang cảm thấy. Nhưng lúc này cơ hội duy nhất của cậu là hãy làm theo thật chính xác những điều tớ hướng dẫn sau đây và phải thật thận trọng với tất cả mọi người xung quanh mà cậu cần phải tiếp xúc.

Adam nói:

– Tớ đang nghe đây.

– Cậu phải nhớ tất cả những gì tớ nói bởi vì tớ sẽ chỉ nói với cậu một lần thôi. Dàn nhạc giao hưởng Hoàng gia đang ở cùng một khách sạn với cậu. Mười giờ sáng nay họ sẽ đi Franfurkt. Mười giờ kém năm cậu hãy rời phòng, đến sảnh chính cậu hãy đi lẫn vào cùng với các nhạc công và đi ra cổng trước, xe của dàn nhạc sẽ đỗ ở đó. Bên kia đường sẽ có một chiếc xe chờ sẵn. Đó là một chiếc Mercedes màu đen, cậu sẽ nhìn thấy một người mặc đồng phục lái xe màu xám mở sẵn cửa xe. Chúng tớ đã thu xếp để trong vòng từ chín giờ rưỡi đến mười giờ rưỡi sẽ không có một xe nào khác đỗ ở bên kia đường như vậy, vì thế cậu sẽ không thể bị nhầm được. Cậu cứ vào và đợi. Trên ghế sau sẽ có một người nữa và họ sẽ đưa cậu đến Sứ quán của chúng ta một cách an toàn. Cậu có cần tớ nhắc lại điều gì không?

Adam nói:

– Không. Nhưng…

Lawrence nói:

– Chúc may mắn.

Rồi điện thoại tắt ngấm.

Bảy giờ ba mươi phút anh đã tắm xong, trong khi Robin vẫn còn ngủ rất say. Adam thấy ghen với cô. Bên ngoài có tiếng cành cây gẫy, anh thấy mình tỉnh như sáo. Hai năm sống trong rừng già Malaysia và không bao giờ có thể ngủ hơn hai ba tiếng, nếu muốn sống sót, tất cả những thói quen đó vẫn in đậm trong anh.

Robin không hề cựa quậy thêm trong ba mươi phút nữa, suốt thời gian đó Adam ngồi trong ghế xô pha ôn lại kế hoạch của Lawrence. Cuối cùng lúc tám giờ kém mười cô cũng tỉnh dậy, nhưng phải mất mấy phút mới tỉnh hẳn. Robin chớp mắt nhìn Adam và một nụ cười rộng ngoác hiện ra trên gương mặt cô. Cô nói:

– Vậy là anh không giết tôi trong khi tôi ngủ.

Adam nói:

– Tôi nghĩ nếu tôi có giết thì cô cũng chẳng biết.

Cô đặt chân xuống thảm và nói:

– Nếu như cha anh luôn say rượu và về nhà vào bất cứ giờ nào, thì anh sẽ học được cách ngủ ngon trong bất cứ hoàn cảnh nào. Anh định gọi cho London bây giờ phải không?

– Tôi đã gọi rồi.

Robin dụi mắt đi về phía buồng tắm và hỏi:

– Vậy kế hoạch là thế nào?

Adam nói:

– Tôi sẽ đi cùng với cô.

Cô nói:

– Hầu hết các anh bạn qua đêm cùng tôi chẳng buồn ở lại lâu đến thế đâu.

Nói rồi cô đóng cửa buồng tắm lại. Adam cố đọc báo trong khi cô tắm.

Mấy phút sau Robin mở cửa buồng tắm đi ra và hỏi, tựa như câu chuyện không hề bị gián đoạn:

– Nghĩa là ở Franfurkt chúng ta cũng lại ngủ chung phòng ư?

– Không, sau khi trả phòng tôi sẽ đi cùng cô ra đến xe sau đó sẽ đi đến xe của tôi đậu phía bên kia đường.

Cô nói:

– Nghe như thế giống như những người đàn ông tôi vẫn quen hơn rồi đấy. Nhưng ít nhất chúng ta cũng phải ăn một bữa lót dạ để tạm biệt chứ nhỉ – cô nhấc điện thoại

– Tôi bị nghiện món cá trích muối. Thế còn anh?

Adam không đáp. Anh bắt đầu chốc chốc lại liếc nhìn đồng hồ. Mười lăm phút sau người bồi đã đem bữa sáng đến, Adam trốn vào buồng tắm. Anh không thấy hứng thú tí nào đối với việc ăn uống vào lúc này, vì thế Robin ăn hết cả bốn con cá trích muối và gần hết số bánh mì nướng. Đã chín giờ hơn, người bồi vào đẩy chiếc xe đựng đồ ăn đi, Robin bắt đầu xếp đồ đạc. Có tiếng chuông điện thoại réo vang, Robin cầm máy lên nghe còn Adam nhảy chồm lên vì hồi hộp.

Robin nói:

– Vâng, Stephen. Không, không cần phải đến đóng gói đồ đạc hộ tôi đâu. Lần này thì không cần.

Cô đặt điện thoại xuống và nói với Adam:

– Mười giờ chúng tôi sẽ đi Franfurkt.

Adam nói:

– Tôi biết.

– Có lẽ chúng tôi cần bổ nhiêm Lawrence làm chỉ huy dàn nhạc, bởi vì hình như anh ta biết hết mọi chuyện, thậm chí trước khi người ta quyết định nữa kìa.

Adam cũng đang nghĩ như vậy.

Robin nói thêm:

– Được, ít nhất tôi cũng có người mang giúp đống đồ đạc này.

Adam đề nghị:

– Nếu cô đồng ý thì tôi sẽ đeo cây đàn công trơ bass.

Robin nói:

– Tôi mong được thấy anh ráng sức lắm.

Adam bước lại chỗ cây đàn to tướng cạnh tường. Anh cố xoay cây đàn đủ kiểu nhưng cũng chỉ có thể kéo lê nó trên sàn nhà vài mét. Robin đến giúp anh và chỉ hất một cái cô đã đặt được nó lên vai thật điệu nghệ. Cô bước mấy bước trong phòng ngủ để chứng tỏ sức lực của mình. Cô nói:

– Bạn của tôi ơi, đó là một chút tài nghệ thôi mà. Và tôi cũng tin là một nửa lực lượng cảnh sát Thụy sĩ đã để sổng mất anh, khiến cho anh có thể ngủ cùng tôi một đêm.

Adam cố phá lên cười. Anh nhặt chiếc áo khoác dã chiến và kiểm tra lại xem bức tranh Thánh đã được kéo khóa lên chưa. Nhưng anh không khỏi rùng mình, cả vì sợ hãi lẫn dự cảm.

Robin liếc nhìn anh, nhẹ nhàng nói:

– Đừng lo. Chỉ mấy phút nữa là mọi chuyện sẽ qua thôi mà – rồi cô nhìn thấy tờ báo trên sàn – Nếu tôi là anh thì tôi sẽ kiện tất cả bọn chúng.

Adam hỏi:

– Tại sao kia?

– Anh dễ coi hơn bức ảnh kia nhiều.

Adam mỉm cười và bước sang vòng tay ôm lấy cô. Anh nói:

– Cám ơn cô vì tất cả. Nhưng bây giờ chúng ta phải đi thôi.

Robin trề môi:

– Bây giờ anh lại càng giống các nhân tình của tôi rồi đấy.

Adam cầm vali của cô lên trong khi Robin đặt cây đàn và chiếc vĩ lên vai. Cô mở cửa nhìn ra hành lang. Hai đồng nghiệp cùng dàn nhạc của cô đang chờ trước cửa thang máy. Robin và Adam đến đứng chờ cùng họ. Sau khi chào nhau tất cả lại im lặng không ai nói lời nào cho đến khi cửa buồng thang máy mở ra. Cửa thang máy đóng lại và không cưỡng nổi, hai nhạc công kia đành nhìn sát mặt Adam. Thoạt tiên anh lo là họ nhận ra mình từ bức ảnh trong báo. Rồi anh nhận ra chính kẻ đã ngủ đêm với Robin mới làm họ chú ý. Robin nháy mắt làm như đã quen với kiểu nhìn như vậy lắm rồi. Về phần mình Adam chúi người trốn vào góc buồng sau cây đàn công trơ bass và nặng nhọc thở trong khi thang máy chậm chạp bò xuống tầng trệt. Rồi cửa cũng bật mở, Robin chờ hai người kia đi ra rồi mới cố hết sức che cho Adam đi qua tiền sảnh. Adam nhìn chằm chằm ra cửa, anh nhìn thấy chiếc xe du lịch choán hét cả đường, nhiều nhạc công trong dàn nhạc đã bắt đầu leo lên xe. Chỉ một phút nữa thôi là anh đã đi khỏi đây một cách an toàn. Anh nhìn theo hai cái trống đang được người lái xe cẩn thận cất vào cái hòm xe to tướng.

Robin nói:

– Ôi, lạy Chúa, tôi quên mất. Tôi định cất cây đàn vào phía sau xe kia mà.

Adam nói:

– Để sau đã. Cứ đi như thế cho đến khi ra đến cửa xe đã.

Rồi anh nhìn thấy chiếc xe đậu bên kia đường. Anh thấy nhẹ cả người, thậm chí gần như choáng váng. Cửa xe đã mở sẵn cho anh. Một người thứ hai ngồi ở ghế sau đúng như Lawrence đã nói. Đâu đó phía xa có tiếng đồng hồ điểm mười giờ. Người đàn ông mặc bộ đồng phục lái xe mũ kéo sụp xuống tận mắt đứng bên cạnh cửa xe. Adam nhìn về phía người đó, trong khi hắn ta nhìn bao quát về phía cửa khách sạn. Bộ đồng phục không vừa lắm.

Adam rít lên:

– Vào xe đi.

Robin nói:

– Với cây đàn này ấy à? Họ sẽ giết tôi.

– Nếu cô không vào thì chúng sẽ giết tôi.

Robin tuân theo, cô len lỏi đi giữa hai dãy ghế mặc những tiếng phàn nàn xung quanh. Cây đàn cồng kềnh che khuất hẳn Adam khiến cho những kẻ đứng bên kia đường không thể nhìn thấy anh. Adam cảm thấy mình sắp ốm mất.

Anh ngồi thụp xuống chiếc ghế cạnh Robin,cây đàn đặt giữa hai người.

Cô thì thào:

– Tên nào?

– Tên mặc đồng phục lái xe.

Robin nhìn ra ngoài cửa sổ, cô nói nghe tỉnh queo:

– Có thể đó là một con quỷ, nhưng quả thật là hắn đẹp trai quá.

Adam sửng sốt nhìn cô, Robin mỉm cười vẻ xin lỗi.

Một người đứng trên đầu xe gọi to:

– Mọi người đã lên xe cả rồi. Tôi đã đếm hai lần, nhưng hình như chúng ta thừa ra một người.

Ôi, lạy Chúa. Anh ta quẳng mình ra ngoài mất – Adam nghĩ.

Robin gọi với lên:

– Anh trai tôi đấy. Anh ấy chỉ đi cùng chúng ta một đoạn thôi mà.

Trưởng đoàn nói:

– Vậy thì tốt rồi. Nào, chúng ta lên đường.

Robin nói:

– Hắn bắt đầu nhìn về phía xe chúng ta rồi. Nhưng tôi nghĩ là hắn không nhìn thấy anh. Không, không sao cả, hắn lại quay lại nhìn cổng khách sạn rồi.

– Tôi không biết là cô có anh trai đấy.

Người trưởng đoàn nói, anh ta bỗng ở đâu xuất hiện và đứng cạnh họ. Chiếc xe du lịch chậm chạm ra khỏi quảng trường.

Robin lẩm bẩm, mắt vẫn nhìn ra ngoài cửa sổ:

– Cũng tận sáng nay tôi mới biết kia mà.

Cô quay lại nói chuyện với sếp mình:

– Vâng, tôi quên nói với anh là có thể anh ấy cũng sẽ đến Thụy Sĩ cùng lúc với dàn nhạc chúng ta. Hy vọng là không có gì phiền phức chứ ạ?

Người trưởng đoàn nói:

– Không hề gì.

– Adam, đây là Stephen Gried, mà em đã nói với anh, anh ấy là trưởng đoàn của chúng em.

Stephen bắt tay Adam và hỏi:

– Anh cũng là nhạc công chứ?

Adam đáp”

– Ồ, không. Thành thật mà nói rất tiếc là tôi không biết chơi thứ nhạc cụ nào cả.

Robin chen vào:

– Anh ấy mù tịt về âm thanh. Giống hệt cha tôi – Cô nói tiếp, có vẻ thích thú tự tán thưởng – Thực tế thì anh ấy là một nhà kinh doanh lốp xe.

– Vậy sao. Anh làm cho công ty nào?

Adam thoáng nhớ đến tên một công ty kinh doanh lốp xe nào đó:

– Tôi làm ở công ty Pireli.

– Pireli ư? Có phải cái công ty vẫn hay có những tờ lịch rất đẹp không nhỉ?

Robin hỏi vẻ vô cùng ngây thơ:

– Có cái gì đặc biệt trong tờ lịch của họ kia? Nếu anh muốn có một tờ thì tôi tin là Adam có thể tặng anh được.

Stephen nói:

– Vậy thì tuyệt quá. Hy vọng là như vậy sẽ không làm phiền anh quá.

Robin nói:

– Ồ, có gì phiền đâu – cô ngả người về phía Adam – Thật ra có thể tiết lộ với anh một bí mật của gia đình, Adam sắp trở thành thành viên Hội đồng quản trị. Anh biết không, một thành viên Hội đồng quản trị trẻ nhất trong lịch sử công ty đấy.

Người trưởng đoàn nhìn sát vào mặt thành viên mới nhất của dàn nhạc:

– Thế thì tuyệt đấy.

Adam hỏi:

– Tôi sẽ gửi lịch cho anh theo địa chỉ nào?

– Ồ, cứ gửi thẳng đến Dàn nhạc Giao hưởng Hoàng gia, Không cần phải nói địa chỉ cho anh chứ, đúng không?

Robin nói:

– Chắc là lại được đựng trong một phong bì màu nâu chứ gì. Anh không lo về chuyện lịch năm nào. Anh ấy không quan tâm đến ngày tháng in trên lịch đâu.

Phía trên đầu xe có người hỏi xuống:

– Stephen, mấy giờ thì đến Franfurkt?

Người trưởng đoàn nói:

– Tôi phải đi đây. Cám ơn vì anh đã hứa gửi lịch cho tôi. Robin nói đúng đấy, năm nào cũng được.

Anh tay vừa quay đi, Adam hỏi Robin:

– Ai dạy cô nói dối như cuội vậy?

Robin nói:

– Cha tôi. Anh phải nghe ông nói dối mới thấy hay. Phải nói là thượng hạng. Vấn đề là mẹ tôi lại tin tất cả những điều cha tôi nói mới hay chứ.

– Hẳn là cha cô cũng phải tự hào về cô hôm nay.

Robin nói:

– Bây giờ chúng ta mới biết anh kiếm sống bằng nghề gì, có lẽ có thể biết được thêm là chương trình tiếp theo của thành viên Hội đồng quản trị trẻ nhất công ty Pireli sẽ là gì chứ?

Adam mỉm cười:

– Tôi bắt đầu thử suy luận theo cách của Rosenbaum. Chắc hẳn là hắn sẽ tiếp tục ở Geneva ít nhất một giờ nữa, nhiều nhất là hai giờ. Vì thế nếu may mắn tôi sẽ có thể xuất phát trước hắn được năm mươi dặm.

Anh trải tấm bản đồ ra giữa hai ghế và dò theo đường xe du lịch đang chạy. Robin lên tiếng trước.

– Như vậy có nghĩa là anh có thể đến được Zurich trước khi hắn đuổi kịp?

Adam nói:

– Có thể. Nhưng như vậy quá nguy hiểm – Adam nhớ đến lời dặn của Lawrence không nên để Robin biết quá sâu vào bí mật này – Dù cho Rosenbaum có là ai đi chăng nữa thì bây giờ chúng ta cũng biết chắc là hắn có cả một tổ chức chuyên nghiệp làm hậu thuẫn. Vì thế tôi nghĩ rằng các sân bay sẽ là nơi đầu tiên hắn cho phong tỏa. Cũng chơ quên rằng cảnh sát Thụy Sĩ cũng đang truy tìm tôi nữa.

Robin hỏi:

– Vậy thì tại sao anh không đi thẳng Franfurkt với chúng tôi? Tôi nghĩ là với Stephen sẽ không có vấn đề gì đâu.

Adam nói:

– Tôi cũng đã nghĩ đến chuyện đó nhưng như vậy cũng quá nguy hiểm.

– Tại sao?

– Bởi vì khi có thời gian nghĩ lại Rosenbaum sẽ nhớ cái xe du lịch này. Một khi biết hướng đi của chúng ta thì chắc chắn là hắn sẽ đuổi theo.

Robin lại nhìn vào tấm bản đồ:

– Vậy thì anh sẽ phải quyết định là sẽ xuống đâu và khi nào thì xuống.

Adam thì thầm:

– Chính xác là như vậy. Tôi chỉ có thể liều khoảng sáu mươi, hoặc bảy mươi dặm, không nên xa hơn nữa.

Robin dò ngón tay dọc con đường nhỏ tí trên bản đồ rồi dừng lại ở một thị trấn nhỏ tên là Solothurn:

– Khoảng đây.

– Thử xem có đúng khoảng cách không.

– Nhưng khi xuống xe rồi thì anh sẽ đi bằng cách nào nữa?

– Chẳng có cách nào khác là vẫy xe hoặc đi bộ – trừ phi tôi kiếm được một chiếc xe khác.

– Nếu may mắn thì có lẽ Rosenbaum sẽ chính là người dừng xe lại để cho anh đi nhờ đấy.

Adam nói:

– Đúng vậy, tôi cũng đã nghĩ đến điều đó. Tôi sẽ phải nấp ở một khúc quanh nào đó để không ai nhìn thấy mà vẫn quan sát được trong vòng khoảng một trăm mét về các hướng, sau đó sẽ chỉ vẫy xe nào của Anh hoặc mang biển số Anh mà thôi.

Robin nói:

– Trong quân đội của người ta cũng dạy anh nhiều ngón đấy chứ nhỉ? Nhưng anh định sẽ qua cửa khẩu bằng cách nào, với hộ chiếu như vậy?

– Đó là một trong nhiều vấn đề mà đến giờ tôi vẫn chưa tìm ra giải pháp.

Robin nói:

– Nếu anh đi với chúng tôi thì việc đó sẽ rất dễ dàng.

Adam hỏi:

– Tại sao thế?

– Bởi vì mỗi khi qua cửa khẩu thì thường người ta đếm số người và số hộ chiếu, thường là nhân viên cửa khẩu chẳng bao giờ buồn kiểm tra từng người đâu. Rốt cuộc tại sao họ lại làm vậy cơ chứ? Dàn nhạc Giao hưởng Hoàng gia này thường không có số người cố định. Tôi chỉ có mỗi một việc là đưa hộ chiếu của anh và nói trước với trưởng đoàn thôi.

– Đó là một ý hay, nhưng tôi không thể làm theo được. Nếu Rosenbaum mà đuổi kịp trong khi tôi vẫn còn ngồi trên xe này thì tôi sẽ không thể có đường nào khác để trốn thóat.

Robin im lặng một hồi lâu:

– Anh có định liên lạc với Lawrence không?

– Có. Tôi phải cho anh ấy biết chuyện gì đã xảy ra sáng nay, bởi vì anh ta đang làm việc cùng với một người có liên hệ trực tiếp với Rosenbaum, dù cho người đó có là ai đi chăng nữa.

– Liệu người đó có phải là Lawrence không?

– Không bao giờ.

Robin quay lại nhìn anh:

– Lòng trung thành của anh thật đáng quý. Nhưng có phải thật ra anh muốn nói rằng anh không thể tin đó là Lawrence không?

– Cô định nói gì vậy?

– Cũng như mẹ tôi không bao giờ muốn tin rằng cha tôi là một kẻ dối trá và nát rượu. Thế là bà cứ bịt mắt lại trước mọi thói xấu của ông. Anh biết không, thậm chí ngay cả khi cha tôi chết vì xơ gan do nghiện rượu bà vẫn khăng khăng nói rằng “Đàn ông mà không uống rượu bao giờ thật kỳ quặc”.

Adam nghĩ đến quan hệ giữa mình và Lawrence và tự hỏi liệu có thể nào quen biết và thân thiết với một người trong suốt hai mươi năm trời để rồi cuối cùng lại hóa ra chẳng hề biết gì về người đó cả hay không.

Robin khuyên:

– Chỉ cần anh cân nhắc xem anh nên cho anh ấy biết đến đâu thôi.

Họ lại ngồi im lặng, Adam kiểm tra đi kiểm tra lại rất nhiều lần trên bản đồ tất cả những ngả đường khác nhau có thể có khi anh xuống xe. Anh quyết định sẽ đi về phía biên giới Đức và đi đường vòng để về Anh, qua Hamburg hoặc Bremarhaven chứ không chọn đường gần hơn là đi qua Calais hoặc Ostend.

Chợt Robin nói:

– Có rồi.

Adam ngước mắt khỏi tấm bản đồ, hỏi:

– Có cái gì kia?

Cô lẩm bẩm:

– Chuyện hộ chiếu của anh ấy mà

Adam khấp khởi liếc nhìn cô, Robin giải thích:

– Anh đưa hộ chiếu của anh cho tôi. Tôi sẽ tráo hộ chiếu của anh bằng hộ chiếu của một người nào đó trong dàn nhạc, ai đó trông khá giống anh nhất. Sẽ không ai nhận ra điều gì khác thường trước khi chúng tôi về đến Anh vào đem Chủ nhật.

– Cũng là một ý hay đấy, nếu như có ai đó chỉ cần hơi giống tôi thôi cũng được.

Robin nói:

– Phải xem xem có thể làm gì được bây giờ.

Cô ngồi thẳng lên mắt chậm rãi nhìn từng người. Sau khi đã nhìn bao quát hết lượt những người trong xe, cô mỉm cười:

– Có hai người khá giống anh. Một người già hơn anh khoảng năm tuổi, người thứ hai hơi thấp hơn anh một tý, nhưng anh cứ tiếp tục tìm cách nào trốn thoát được một cách an toàn nhất đi, trong khi đó tôi sẽ nghiên cứu cẩn thận cái đã. Đưa hộ chiếu của anh cho tôi.

Adam đưa hộ chiếu cho cô và nhìn theo trong khi cô đi lên phía đầu xe và ngồi xuống cạnh người trưởng đoàn. Anh ta đang nói chuyện linh tinh với người lái xe về một chỗ thích hợp để nghỉ lại ăn trưa. Robin xen vào:

– Tôi muốn xem lại hộ chiếu một tý. Xin lỗi vì làm phiền anh.

Stephen tiếp tục nói chuyện với người lái xe:

– Ồ, không sao cả. Cô lật ghế tôi lên sẽ thấy một cái cặp nhựa, ở trong ấy đấy.

Robin cuối xuống và bắt đầu lục lọi làm như tìm hộ chiếu của mình. Cô nhặt hai tấm hộ chiếu định đánh tráo và so sánh hai tấm ảnh. Ẳnh người thấp hơn không có gì giống với Adam. Ẳnh người già hơn chắc phải chụp cách đây năm năm là ít, nhưng cũng tạm được với điều kiện đừng xem xét quá kỹ về năm sinh. Robin xếp lại tập hộ chiếu, nhét lại tấm của Adam vào giữa rồi bỏ lại vào cặp nhựa, sau đó đặt lại cái cặp nhựa vào dưới ghế của người trưởng đoàn.

Robin quay về chỗ mình nhét tấm hộ chiếu vào tay Adam:

– Thử nhìn mà xem này.

Adam xem xét tấm ảnh

– Ngoài trừ bộ ria mép ra thì khá giống đấy, và đây ắt là cơ hội tốt nhất trong hoàn cảnh này. Nhưng làm thế nào khi họ về đến London và họ phát hiện ra tấm hộ chiếu bị đánh tráo này?

Robin nói:

– Anh về Lodon trước chúng tôi nhiều. Vậy hãy bỏ vào một cái phong bì cùng với cuốn lịch và gởi thẳng đến cho dàn nhạc Thính phòng Hoàng gia ở phố Wigmore, W1 và họ sẽ gởi trả lại hộ chiếu của anh cho anh.

Adam có thể thề là nếu anh có thể về đến được London thì sẽ trở thành một trong những người gọi điện thường xuyên đến dàn nhạc Thính phòng Hoàng gia nhất.

– Dường như là ít nhất cũng đã giải quyết được một vấn đề khó khăn cho anh rồi nhỉ.

Adam nói:

– Ít nhất là tạm thời vào lúc này. Chỉ ước gì tôi có thể đi cùng cô suốt đoạn đường còn lại.

Robin mỉm cười

– Franfurkt, Berlin, Amsterdam- Nếu như anh thiết đi. Tôi không có hề có ý định gặp Rosenbaum làm gì, nhưng lần này sẽ đối mặt.

Adam nói:

– Hắn sẽ gặp được người tương xứng đấy.

Robin bỏ qua lời nhận xét, nói:

– Tôi có thể nhìn bức tranh thánh lần cuối không?

Adam cuối xuống hé áo khoác và lấy bức tranh trong túi đựng bản đồ ra, thật cẩn thận để không ai nhìn thấy nó

Robin nhìn vào mắt Thánh George hồi lâu mới cất tiếng nói

– Đêm qua tôi cứ nằm thức chong chong chờ anh nhảy đến, tôi đã nghĩ mãi xem bức tranh Thánh này có thể che dấu một bí mật như thế nào.

Adam mỉm cười

– Thế mà tôi cứ tưởng cô ngủ. Trong khi cả hai cùng nghĩ đến một việc. Nhưng cô có đưa đến một kết luận đáng kể nào không?

Robin nói:

– Trước tiên tôi nghĩ là khẩu vị của anh dành cho một nhạc công chơi đàn Công trơ bass là đàn ông kìa, hoặc anh định làm thế nào để chịu đựng tôi?

Adam cười hỏi:

– Nhưng còn Thánh George và Con Rồng thì thế nào?

– Thoạt tiên tôi cứ phân vân trong những mẫu chữ Do Thái ấy có giấu mật mã gì không. Nhưng bức tranh ấy được vẽ bởi một bàn tay tài nghệ quá nên nếu có thì mật mã ấy cũng được khắc sau này. Nhưng điều đó nghe khó tin quá.

– Suy luận tốt lắm, Batman à

– Không, anh mới là Batman. Vì thế tôi bèn tự hỏi hay là còn điều gì khác ẩn giấu bên trong bức vẽ đó. Từ hồi còn là học sinh tôi vẫn thường nghe nói rằng Rembrandt và Constable thường vẽ chồng lên những bức tranh của mình. Có thể vì họ chẳng coi tác phẩm của mình ra gì, hoặc là với trường hợp của Rembrandt thì không có tiền mua tấm voan khác

– Nếu vậy thì câu trả lời duy nhất sẽ là chỉ cần một chuyên gia là có thể tiến hành việc bóc từng mẩu mầu ra.

Robin nói:

– Đồng ý. Nhưng rồi tôi cũng loại bỏ giả thiết đó. Ý nghĩ thứ ba của tôi là về vành vương miệng gắn phía sau bức tranh – cô lật bức tranh lên và nhìn vào mẩu bạc nhỏ khảm sâu vào khung gỗ – vành vương miệng này chứng tỏ điều mà viên chuyên gia đã nói với anh, nghĩa là đây là nguyên bản tác phẩm của Rublev và hoàn toàn đó không phải là một phiên bản như anh tưởng.

Adam nói:

– Trong mấy đêm không ngủ vừa rồi tôi cũng đã nghĩ như vậy và mặc dầu quả là nó có một giá trị cao hơn nhiều so với giả thiết ban đầu, vẫn chưa đủ để giải thích tại sao Rosenbaum lại giết người không tiếc tay vì nó.

Robin hỏi:

– Có lẽ ai đó cần bức tranh Thánh cũng chẳng kém gì Rosenbaum

– Nhưng ai và tại sao?

– Bởi vì không phải bức tranh là điều hắn đeo đuổi mà là một cái gì khác nữa. Một cái gì đó giấu sau hoặc trong bức tranh.

Adam làu bàu:

– Dĩ nhiên việc đầu tiên là tôi kiểm tra xem có hay không rồi. Và chắc chắn đó chỉ là một khối gỗ đặc mà thôi

Robin gõ gõ ngón tay khắp khung gỗ tựa như bác sĩ đang khám ngực bệnh nhân:

– Tôi không nhất trí với anh đâu. Từ bé tôi đã làm quen với các nhạc cụ rồi, tôi đã xem người ta làm đàn, đã chơi đàn, thậm chí còn ôm cả đàn mà ngủ nữa. Bức tranh Thánh này không phải là một khối gỗ đặt hoàn toàn, mặc dầu có trời mới biết là tôi làm thế nào cảm thấy được điều đó. Nếu như có cái gì được giấu trong bức tranh này, thì những kẻ tầm thường như hai chúng ta cũng không thể tìm ra đâu.

Adam nói:

– Không thể hình dung nổi nó là cái gì, đúng không?

Robin đưa bức tranh Thánh lại cho Adam và nói:

– Hiển nhiên là như vậy. Nếu có bao giờ anh phát hiện ra đấy là cái gì thì nhớ cho tôi biết với nhé.

Adam bỏ bức tranh lại vào túi áo khóac và nói:

– Cứ mỗi lúc có năm phút rảnh rang thôi là tôi lại nghiền ngẫm những giả thiết về nó.

Robin chỉ ra ngoài cửa sổ:

– Còn hai cây nữa là đến Solothurn

Adam cài lại cúc áo khoác. Robin nói:

– Tôi sẽ tiễn anh xuống.

Cả hai người lách lên qua hai hàng ghế. Lên đầu xe Adam đề nghị người lái xe cho anh xuống trước khi đến làng sắp tới.

Người lái xe nói, không ngoảnh đầu lại:

– Được thôi.

Stephen nói:

– Chia tay sớm thế sao?

Adam nói:

– Rất tiếc là như vậy. Cảm ơn anh vì đã cho tôi did nhờ. Tôi sẽ không quên chuyện lịch đâu.

Người lái xe về số, ấn nút mở cửa.

Adam hôn lên má Robin và nói:

– Chào em nhé, Robin.

Robin nói:

– Chào anh. Nếu anh gặp mẹ trước em thì hôn mẹ hộ em nhé.

Cô mỉm cười vẫy chào trong lúc cửa đóng sập lại, chiếc xe lại tiếp tục phóng tiếp về hướng Franfurt.

Adam lại còn lại một mình.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN