Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và Chốn tận cùng Thế giới - Chương 07
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
127


Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và Chốn tận cùng Thế giới


Chương 07



7

Đầu Lâu, Lauren Bacall,

Thư Viện Thành Phố

Tôi đón taxi về nhà. Bên ngoài đã tối, đường phố đông nghịt người vào giờ tan tầm. Trời mưa phùn, tôi đợi mãi mới bắt được taxi.

Thường là tôi cân nhắc kỹ càng nếu muốn đi taxi. Vì tôi luôn để ít nhất hai taxi trống chạy qua để tránh mọi nguy hiểm. Bọn ký hiệu sư có các taxi giả hiệu, thỉnh thoảng người ta vẫn nghe chuyện chúng đón khách là toán sư vừa đi làm về và đưa họ đi mất. Có thể chỉ là lời đồn thổi. Cả tôi lẫn các đồng nghiệp chưa vấp phải chuyện ấy bao giờ. Nhưng cẩn thận không bao giờ thừa.

Vì lý do đó, bình thường tôi luôn đi tàu điện ngầm, hay xe buýt, nhưng lần này tôi cực kỳ mệt và buồn ngủ, đã thế trời lại mưa, nghĩ đến tàu xe lèn chặt người đã thấy ớn; vậy là tôi cố công tìm taxi. Trên đường đi tôi suýt ngủ gật mấy lần, phải cố cưỡng lại: về đến nhà thì tha hồ ngủ bao lâu cũng được. Ở đây không được ngủ quên! Ngủ trên xe rất nguy hiểm!

Tôi tập trung nghe tường thuật bóng chày trên radio. Do không thạo môn bóng chày chuyên nghiệp nên tôi ủng hộ đội bóng đang tấn công và ghét đội phòng thủ. Đội của tôi đang bị dẫn 3:1. Cho đến khi taxi đỗ trước nhà tôi thì tỉ số đã là 4:1. Tôi trả tiền, cặp hộp đựng mũ dưới nách và ra khỏi xe trong tình trạng buồn ngủ ngất ngư. Mưa đã gần tạnh.

Hộp thư của tôi trống trơn. Máy ghi âm cũng không có tin nhắn. Có vẻ như chẳng ai cần tôi. Càng tốt. Tôi cũng chẳng cần ai. Tôi lấy đá trong tủ lạnh, pha một cốc whiskey lớn với đá và một ít soda. Rồi tôi cởi quần áo chui lên giường, ngồi dựa vào tường và nhâm nhi whiskey. Tôi biết chỉ trong chốc lát là sẽ ngủ quay ra ngay nhưng không muốn bỏ lỡ nghi thức ngọt ngào khi đi làm về. Đó là mấy phút đồng hồ yêu thích nhất của tôi sau khi lên giường, là khoảng thời gian ngắn ngủi mà cơn buồn ngủ rình quật ngã tôi. Tôi đem theo chút đồ uống, nghe nhạc, đọc sách. Tôi yêu mấy phút ấy như người khác yêu mặt trời lặn hay không khí trong lành.

Tôi uống cạn nửa cốc whiskey thì điện thoại đổ chuông. Điện thoại nằm trên chiếc bàn tròn cách giường chừng ba thước. Đã lên giường là tôi không muốn trèo xuống nữa, vì vậy tôi chỉ ngó qua phía điện thoại đang réo chuông. Mười ba, mười bốn hồi chuông, nhưng tôi không bận tâm. Trong các phim hoạt hình ngày xưa có cảnh máy điện thoại run lên bần bật với mỗi hồi chuông, nhưng thực tế tất nhiên không thế. Máy trên bàn không rung, chỉ đổ chuông. Tôi vừa uống whiskey vừa quan sát.

Cạnh điện thoại là ví tiền, dao và hộp mũ. Tôi chợt nhớ là có lẽ nên mở hộp ngay. Có thể phải cho đồ trong đó vào tủ lạnh, hay có thứ gì còn sống hoặc rất quan trọng, nhưng tôi đã quá mệt để nhỏm dậy. Nếu đúng thế thì người ta đã nhắc nhở tôi khi đưa quà. Khi điện thoại ngừng chuông, tôi uống một hơi hết chỗ rượu còn lại, tắt đèn đầu giường và nhắm mắt. Đúng thời điểm đó, giấc ngủ chụp lên tôi như một cái lưới lớn màu đen, cứ như nó đã rình sẵn. Tôi còn kịp nghĩ: thây kệ tất cả.

Lúc tôi thức dậy thì xung quanh lờ mờ tối. Đồng hồ chỉ 6 giờ 15, không rõ là sáng sớm hay tối. Tôi mặc quần đi ra phía trước và nhìn ra căn hộ hàng xóm. Tờ báo buổi sáng nằm trước cửa, nghĩa là đang sáng sớm. Những lúc thế này mới thấy mua báo dài hạn có lợi. Có thể tôi cũng sẽ đặt mua một tờ.

Tôi đã ngủ chừng mười tiếng. Cơ thể tôi cần nghỉ thêm, vì do cả ngày hôm nay không có việc gì nên lẽ ra tôi lại đi nằm cũng được, nhưng tôi quyết định không ngủ nữa. Không mấy khi có được cảm giác tuyệt vời khi thức dậy cùng ánh nắng mới mẻ và tinh khôi. Tôi tắm thật kỹ và cạo râu. Sau đó là hai mươi phút thể dục như thường lệ và ăn sáng bằng những đồ còn trong nhà. Tủ lạnh đã gần trống lại phải chất vào cho đầy thôi. Tôi ra bàn bếp ngồi, vừa uống nước cam vừa lấy bút chì viết ra những thứ cần mua lên một tờ giấy vuông. Một không đủ, tôi dùng hai tờ. Giờ này siêu thị chưa mở, do đó tôi quyết định sẽ ăn trưa ngoài phố rồi sau đó đi mua đồ.

Tôi ném quần áo bẩn trong giỏ nhà tắm vào máy giặt. Trong lúc cọ đôi giày tennis trong bồn rửa tay, tôi chợt nhớ đến món quà bí hiểm của ông già. Tôi để lại chiếc giày phải đang cọ dở, lau khô tay bằng khăn lau bát, đi vào phòng ngủ và nhấc hộp lên. Trước sau thì nó vẫn nhẹ so với kích thước. Một kiểu nhẹ làm người ta không yên tâm. Nó nhẹ hơn mức được phép nhẹ. Trong đầu tôi lóe đèn cảnh báo. Một giác trực giác nghề nghiệp chứ không có cơ sở cụ thể nào cả.

Tôi nhìn quanh phòng. Im lặng lạ lùng. Im lặng như đã tắt mọi âm thanh. Tôi đằng hắng – nghe đúng tiếng đằng hắng. Tôi bật dao ra và khẽ gõ sống dao vài lần lên bàn: nghe đúng tiếng gõ thật sự. Sau khi làm quen với thế giới không âm thanh, một thời gian dài người ta sẽ nghi ngại không tin vào sự yên tĩnh. Rồi tôi mở cửa ban công. Tiếng động của xe cộ và tiếng chim líu lo tràn vào. Tiến hóa kiểu gì thì tùy, thế giới này phải có những tiếng động của nó.

Tôi cẩn thật cắt băng dính để khỏi làm hỏng đồ bên trong. Trên cùng là giấy báo vò nhàu. Tôi vuốt thẳng một tờ và đọc; trong đó không có gì đáng để ý, chỉ là một tờ báo rất bình thường, số ra trước đây ba tuần – tờ Mainichi Shimbun. Tôi lấy trong bếp ra một túi đựng rác và ném báo vào. Hộp đựng mũ được nhồi chặt bằng mười bốn số báo, báo của hai tuần. Toàn là tờ Mainichi. Dưới đó là những mẩu vật liệu chèn bằng xốp mềm, dài bằng ngón tay trẻ con. Tôi lấy cả hai tay hót chúng khỏi hộp và vứt vào túi rác. Trong hộp có gì thì tôi không biết, nhưng gói ghém quá mất công. Khi vứt ra được nửa chỗ vật liệu xốp, một vật gì đó gói trong giấy báo lộ ra. Tôi đã bắt đầu ngán ngẩm. Tôi vào bếp lấy một lon Coca-Cola trong tủ lạnh, ngồi xuống giường và từ từ uống cạn. Sau đó tôi cắt móng tay bằng dao. Ngoài thềm xuất hiện một con chim có lông yếm màu đen, tiếng hót khàn khàn. Như mọi khi, nó mổ hết chỗ ruột bánh mì mà tôi rải lên bàn. Một buổi sớm mai thanh bình.

Rốt cuộc tôi tập trung tâm trí quay lại bàn và lấy đồ vật gói giấy báo ra. Mấy vòng băng dính quấn xung quanh khiến nó trông như một tác phẩm nghệ thuật hiện đại. Nó có dạng một quả dưa hấu thuôn dài và trọng lượng hầu như không đáng kể. Tôi dọn dao và hộp khỏi bàn để lấy chỗ rộng rãi rồi cẩn trọng bóc băng dính và giấy báo. Một cái đầu lâu động vật.

Giỏi, tôi nghĩ, giỏi lắm. Chẳng lẽ ông già nghĩ rằng tôi sẽ vui sướng khi được tặng một cái đầu lâu? Muốn nghĩ xuôi nghĩ ngược thế nào thì tùy, đem cái đầu lâu động vật làm quà tặng là không bình thường.

Cái đầu lâu trông giống của ngựa, nhưng nhỏ hơn nhiều. Ít nhất là kiến thức động vật học của tôi đủ cho thấy chắc chắn nó phải từng nằm trên vai một động vật có vú không to lắm, một loài ăn cỏ họ móng guốc với cái đầu thuôn dài. Tôi gọi tên mấy con ấy ra. Nai, dê, cừu, hoẵng, tuần lộc, lừa… Dĩ nhiên còn nhiều nữa, nhưng tôi không nghĩ ra.

Trước tiên thì tôi cứ đặt nó lên trên ti vi. Không phải một vị trí thích hợp lắm, nhưng tôi không biết chỗ nào tử tế hơn. Ở nhà Hemingway chắc nó sẽ được đặt lên lò sưởi cạnh mấy cái đầu tuần lộc của ông ấy, nhưng trong nhà tôi tất nhiên không có lò sưởi đốt củi. Tôi cũng không có kệ tủ, thậm chí chẳng có tủ đựng giày. Do vậy ti vi là nơi duy nhất để tôi đặt đầu lâu của một con vật không rõ tên lên trên.

Khi đổ nốt chỗ xốp chèn ở đáy hộp vào túi rác, tôi phát hiện ra một gói dài dài bọc giấy báo. Tôi mở gói – thì ra là cái kẹp gắp than inox giống như cái kẹp của ông già dùng để gõ đầu lâu. Tôi cầm nó lên tay để ngắm cho kỹ. Không như đầu lâu, cái kẹp cầm khá nặng tay và tạo cảm giác nghiêm trang như cây gậy chỉ huy bằng ngà voi của Furtwangler khi chỉ huy dàn nhạc giao hưởng Berlin.

Không đừng được: tôi ra ti vi và gõ nhẹ lên trán đầu lâu. Một tiếng rung trầm đục như tiếng gừ gừ qua mũi một con chó lớn. Tôi thì lại đợi một tiếng “coong” hay “cạch” sắc lạnh nên hơi bất ngờ nhưng cũng chẳng bất ngờ đến nỗi thấy gì bất ổn ở âm thanh này. Cái đầu lâu này phát tiếng động như một cái đầu lâu, có gì phải bận tâm. Phê phán gì thì cũng không thay đổi được tiếng động lạ tai ấy, và tự tiếng động lạ tai ấy cũng chẳng muốn thay đổi.

Cuối cùng thì tôi cũng ngán nhìn và gõ đầu lâu. Tôi rời ti vi ra ngồi ở giường, đặt điện thoại lên lòng và gọi đại lý chính thức của Hệ thống để biết các lịch hẹn sắp tới. Đại diện của tôi bắt máy và nói là bốn hôm nữa sẽ có việc, liệu tôi có nhận không. Vâng, tôi nói. Thoạt tiên tôi định xin xác nhận quyền được đảo dãy số để tránh những phiền nhiễu có thể xảy ra, nhưng không muốn phải giải thích dài dòng nên lại thôi. Giấy tờ nghiêm chỉnh, thù lao cũng tử tế. Vả lại, ông già đã bỏ qua khâu đại lý vì lý do bảo mật. Không có nguyên cớ gì để làm ọi thứ phức tạp thêm.

Cũng nói thêm là tôi không ưa đại diện của mình lắm. Đó là một anh chàng chừng ba mươi tuổi, cao, gầy, dạng người tin rằng tự mình mới có quyền duyệt cấp phép ọi hành động. Và nếu có thể thì tôi tránh sa vào tình huống phải nói chuyện dài với anh ta.

Xong các vụ hành chính, tôi đặt máy xuống và ra ngồi sofa trong phòng khách. Tôi mở một lon bia và xem phim Key Largo của Humphrey Bogart trên video. Tôi rất thích Lauren Bacall trong Key Largo. Cô cũng diễn rất cừ trong The Big Sleep, dĩ nhiên, nhưng trong Key Largo cô đã thành một tượng đài.

Nhìn lên màn hình song mắt tôi bất giác cứ hất lên phía đầu lâu. Đơn giản là tôi không thể tập trung xem phim như mọi khi. Và tôi ngừng băng video ở đoạn xảy ra cơn cuồng phong, không xem phần còn lại nữa. Thay vào đó là vừa uống bia tôi vừa ngắm đầu lâu. Càng nhìn tôi càng thấy nó thân thuộc. Nhưng vì sao thân thuộc thì tôi cũng không nghĩ ra được. Tôi lấy một cái T-Shirt trong ngăn kéo trùm lên đầu lâu rồi xem tiếp phim Key Largo. Giờ thì tôi lại tập trung xem Lauren Bacall được.

Tôi ra khỏi nhà lúc mười một giờ, ở siêu thị gần ga tôi lấy mọi thực phẩm vớ được, mua vang đỏ, nước khoáng và nước cam trong hiệu đồ uống. Tôi lấy áo vest và hai tấm ga trải giường ở tiệm giặt là, vào một hiệu văn phòng phẩm mua bút bi, phong bì và giấy viết thư, mua ở cửa hàng đồ gia dụng một viên đá mài tốt nhất có bán. Trong hiệu sách tôi lấy hai cuốn tạp chí, rồi đi mua bóng đèn và cassette ghi âm ở cửa hàng đồ điện, một cuốn phim Polaroid trong hiệu ảnh. Cuối cùng tôi còn vào cửa hàng bán đĩa hát để mua vài đĩa. Băng sau trên xe tôi chặt cứng những túi hàng. Hình như tôi có thú vui đi mua bán bẩm sinh. Mỗi lần vào thành phố là tôi cắm cúi khuân hàng núi đồ lặt vặt như một con sóc trước khi vào tiết đông.

Tôi có ô tô chỉ để đi mua hàng. Có lần tôi mua nhiều đến nỗi không xách hết túi, và thế là tôi mua xe. Tay xách các túi hàng, tôi đi tới hiệu xe cũ đã mấy lần để ý. Ở đó quả thật có đủ các loại xe. Tôi không thích ô tô lắm và cũng không thạo thông tin, vì vậy tôi nói đơn giản: “Tôi tìm một cái xe, xe nào cũng được, chỉ đừng to quá.”

Ông bán xe đứng tuổi rút ra một quyển catalog và chỉ cho tôi xem xe này xe nọ, nhưng tôi không muốn xem catalog và nói cho ông rõ là tôi chỉ cần một cái ô tô đi chợ. Tôi không muốn lên đường cao tốc, không chở bạn gái đi dạo, cũng không đưa gia đình đi du lịch. Tôi không cần xe công suất lớn, máy lạnh, đài đĩa stereo, cửa sổ mái, lốp mùa đông. Loại xe tôi muốn phải là loại nhỏ gọn, ít khí thải độc hại, nổ khẽ, bền. Nếu có màu lam đậm thì càng tốt.

Ông khuyên tôi mua một chiếc xe Nhật nhỏ màu vàng. Màu này tôi không thích lắm, nhưng xe đi không tồi và bán kính vòng cua nhỏ. Trông cũng dễ thương, không trang bị gì thừa so với nhu cầu của tôi, và rẻ, vì mẫu xe này đã ngừng sản xuất.

“Một cái ô tô, không hơn không kém!”, ông bán xe đứng tuổi nói. “Lắm thứ trang trí lắp thêm, tôi nói để anh biết, đúng là người ta điên cả rồi.”

“Rất đúng ý tôi”, tôi nói.

Và thế là tôi có ô tô đi chợ. Nó hầu như không bao giờ được dùng vào mục đích nào khác.

Mua hàng xong xuôi, tôi đậu xe vào bãi đỗ của một nhà hàng. Tôi gọi bia, gỏi tôm trộn với hành. Tôi im lặng ngồi ăn một mình. Tôm quá lạnh và hành thì héo. Tôi ngó quanh nhưng không thấy người nào gọi cô bồi bàn lại để phàn nàn hay ném bát đĩa xuống đất cả. Vậy thì tôi cũng chẳng nói gì và ăn hết. Người ta chỉ thất vọng khi trước đó đã từng hy vọng.

Nhìn qua cửa sổ có thể thấy đường cao tốc nội đô. Ô tô đủ màu đủ kiểu đi qua. Tôi nhìn chúng và lại nghĩ đến ông già đã trao việc cho tôi hôm qua và cô cháu gái mũm mĩm của ông. Dù có thiện chí đến mấy, tôi vẫn thấy họ sống trong một thế giới điên rồ, vượt qua hẳn khả năng đồng cảm của tôi. Cái thang máy ngu xuẩn, hang động khổng lồ sau tủ tường, ma đen, tắt âm thanh – tất cả đều điên rồ. Và lại còn tặng tôi một cái đầu lâu lúc chia tay nữa chứ.

Tôi tận dụng mấy phút rỗi rãi buồn tẻ đợi cà phê để nhớ lại từng chi tiết của cô gái mũm mĩm. Đôi bông tai vuông, bộ đồ hồng, giày cao gót, bắp chân và gáy nung núc thịt, khuôn mặt – tất cả. Tôi nhớ tương đối rõ các chi tiết này, nhưng bức tranh tổng thể ghép lại từ các chi tiết ấy thì lại mờ nhạt không ngờ. Có lẽ vì dạo này tôi không ngủ với cô gái nào mũm mĩm cả. Vì thế tôi không thể tưởng tượng ra một cơ thể phụ nữ béo.

Tôi chấm dứt tưởng tượng cảnh cô đang trần truồng, trả tiền và rời nhà hàng. Tôi đi bộ đến thư viện thành phố gần đó, hỏi cô gái trẻ mảnh khảnh tóc dài ngồi ở quầy thông tin: “Cô có sách về đầu lâu động vật có vú không?”

Cô ta đang cắm cúi vào một cuốn sách loại bỏ túi nhưng vẫn ngẩng lên nhìn tôi: “Anh cần gì ạ?”

“Sách-về-đầu-lâu-động-vật-có-vú”, tôi nhắc lại, nhấn rõ từng chữ một.

“Đầu lâu động vật có vú”, cô gái nói, giọng như hát. Nghe như cô ngâm thơ vậy. Tựa như một thi sĩ giới thiệu cho độc giả đầu đề một bài thơ mà ông sắp trình diễn. Tôi thầm hỏi, liệu cô ta có nhắc lại mọi câu hỏi của khách theo kiểu này không.

Lịch sử nhà hát múa rối chẳng hạn.

Hay Thái Cực Quyền đại cương.

Nếu có bài thơ nào mang đầu đề như trên thì hẳn thú vị lắm, tôi nghĩ.

Cô suy nghĩ một lát, cắn răng vào môi dưới. “Phiền anh chờ một chút, tôi sẽ tìm”, cô vừa nói vừa xoay ghế ngay tại bàn và nhấn phím máy tính viết gõ Động vật có vú. Trên màn hình xuất hiện khoảng hai chục đầu sách. Cô dùng bút cảm ứng xóa đi hai phần ba, cho vào bộ nhớ phần còn lại và viết thêm chữ xương. Cô chừa lại hai trong số bảy, tám đầu sách vừa hiện ra rồi chuyển chúng sang các đầu đề đã cất trong bộ nhớ. Thư viện thay đổi ghê gớm thật. Thời mà phiếu kiểm tra còn găm trong túi giấy dán sau sách đã xa xôi như một giấc mơ xưa. Hồi còn bé, tôi thích xem giấy in ngày tháng trên phiếu kiểm tra.

Trong lúc cô thành thạo lướt ngón tay trên bàn phím máy tính, tôi ngắm tấm lưng thon và mái tóc dài của cô. Tôi không chắc chắn có thích cô hay không. Một cô gái xinh xắn, thân thiện, rõ ràng là cũng sáng dạ và nói như ngâm thơ. Dường như chẳng có lý do gì để tôi không thích cô cả.

Cô ấn phím in và trao cho tôi tờ in màn hình. “Anh có thể chọn một trong chín đầu sách sau đây”, cô nói.

1. VỀ ĐỘNG VẬT CÓ VÚ

2. TRANH VÀ ẢNH ĐỘNG VẬT CÓ VÚ

3. BỘ XƯƠNG ĐỘNG VẬT CÓ VÚ

4. LỊCH SỬ ĐỘNG VẬT CÓ VÚ

5. TÔI, MỘT ĐỘNG VẬT CÓ VÚ

6. GIẢI PHẪU ĐỘNG VẬT CÓ VÚ

7. NÃO ĐỘNG VẬT CÓ VÚ

8. XƯƠNG ĐỘNG VẬT

9. NHỮNG BỘ XƯƠNG TỰ KỂ.

Thẻ của tôi được mượn ba cuốn. Tôi lấy các số 2, 3 và 8. Hai đầu đề Tôi, một động vật có vú và Những bộ xương tự kể có vẻ thú vị, nhưng rõ ràng không liên quan trực tiếp đến dự án đang làm, tôi hoãn đến lần sau sẽ mượn về.

“Rất tiếc là cuốn Tranh và ảnh động vật có vú chỉ được dùng tại thư viện, không thể mượn về”, cô nói và gãi lên thái dương bằng bút bi.

“Việc này rất quan trọng. Tôi nhất định sẽ trả sách vào sáng mai”, tôi khẩn khoản. “Tôi xin hứa.”

“Loạt sách tranh ảnh rất được ưa thích, nếu có ai biết là tôi ượn về thì sẽ phiền lắm.”

“Một ngày thôi, không ai biết được đâu.”

Cô gái lưỡng lự, cắn đầu lưỡi đỏ hồng đáng yêu giữa hai hàm răng.

“Được, tôi ượn. Nhưng chỉ một lần này thôi đấy. Và đề nghị anh đúng chín rưỡi sáng mai đem trả!”

“Cảm ơn”, tôi nói.

“Không có gì”, cô nói.

“Tôi có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cô không?”

“Bên kia đường có hiệu kem Baskin-Robbins, anh mua cho tôi một ốc quế đúp, dưới là hạt dẻ, trên là mô ca. Anh có nhớ hết không?”

“Một ốc quế đúp, kem hạt dẻ và mô ca.”

Tôi rời thư viện, đi qua hiệu kem Baskin-Robbins.

Lúc tôi quay lại thì cô gái chưa tìm được hết sách tôi cần, tôi cầm ốc quế trong tay trái và đợi ở quầy thông tin. Hai ông già ngồi đọc báo trên ghế băng lúc thì nhìn tôi, lúc nhìn suất kem một cách tò mò. May mà kem lạnh cứng, còn lâu mới chảy. Vừa đợi vừa cầm kem trong tay mà không được ăn, tôi thấy hơi sốt ruột, như được mời đến mà không ai tiếp.

Quyển sách bỏ túi mà cô gái đọc dở nằm trên mặt bàn như một con thỏ con ngủ quên, lưng vồng lên. Đó là tiểu sử H. G. Wells, tập hai, Time Travallers. Không phải sách của thư viện, chắc là của riêng. Bên cạnh đó là ba cây bút chì vót nhọn chỉn chu. Và bảy hay tám cái ghim giấy. Tại sao đến đâu tôi cũng thấy ghim giấy nằm vương vãi, lạ thật!

Có thể chúng đột nhiên sinh sôi nảy nở vì một lý do nào đó. Hoặc một sự tình cờ được tôi để ý đến quá mức thông thường. Không, đúng là có gì đó bất thường. Như có một bàn tay bí mật điều khiển, tôi cứ đến đâu là lại thấy ở đó ghim giấy nằm lung tung ở một vị trí nổi bật. Trong đầu tôi lóe đèn báo động. Dạo này đèn lóe hơi nhiều – khi thấy đầu lâu, khi thấy ghim giấy. Tôi cảm giác có một mối liên quan, song cố gắng mấy cũng không tưởng tượng ra đầu lâu liên quan gì đến ghim giấy.

Ngay sau đó cô gái tóc dài quay lại với ba quyển sách trên tay. Cô đưa sách cho tôi và cầm kem, ngồi về ngăn của mình và ăn, đầu cúi về phía trước không để ai nhìn thấy từ bên ngoài. Tôi nhìn từ trên xuống: gáy cô lồ lộ rất đẹp.

“Cảm ơn anh”, cô nói.

“Tôi cũng cảm ơn cô”, tôi nói. “À này, cô cần ghim giấy làm gì vậy?”

“Ghim giấy”, cô nhắc lại như hát. “Tôi cần ghim giấy để kẹp các tờ giấy lại với nhau. Anh biết ghim giấy là gì chứ? Ở đâu chả có, ai cũng dùng.”

Cô nói đúng, dĩ nhiên. Tôi cảm ơn, cầm sách và ra về. Ở đâu chả có ghim giấy. Bỏ ra một nghìn yên là mua được ghim giấy trữ đủ dùng cả đời. Ừ, tại sao không! Tôi đỗ ở cửa hàng văn phòng phẩm và mua một nghìn yên ghim giấy. Rồi tôi về nhà.

Về đến nhà tôi xếp thực phẩm vào tủ lạnh. Thịt và cá tôi cuốn vào nylon, đồ đông lạnh cho vào ngăn đá. Tôi cho cả bánh mì và cà phê vào ngăn lạnh sâu. Đậu phụ ngâm vào bát nước. Bia thì xếp vào ngăn mát, rau củ xếp ra phía trước. Tôi treo áo vét vào tủ, đặt nước rửa chén lên giá. Sau đó tôi rải bừa mấy cái ghim giấy trên nóc ti vi cạnh chiếc đầu lâu.

Một sự sắp đặt kỳ quái.

Kỳ quái như đặt gối bông cạnh nước đá hay lọ mực bên xà lách. Tôi đi ra ban công để ngắm từ xa, nhưng ấn tượng đó không đổi. Đầu lâu và ghim giấy không có gì liên quan cả. Nhưng nhất định phải có một sự ràng buộc bí mật mà tôi không biết – hoặc tôi đã biết mà không nhớ lại.

Tôi ngồi lên giường và nhìn đăm đăm vào những đồ vật trên ti vi một hồi lâu. Song tôi không thể nhớ lại một điều gì. Chỉ thời gian là cứ trôi đi. Một chiếc xe cấp cứu đi qua gần nhà, sau đó là một xe phát thanh cổ động của cánh hữu. Tôi thèm whiskey nhưng cố nhịn. Tôi cần cái đầu sáng suốt để suy nghĩ một lát đã. Mấy phút sau chiếc xe của cánh hữu lại đi đúng đường cũ một lần nữa. Chắc họ đi lạc. Phố xá ở khu này khá rối rắm.

Rốt cuộc tôi phẩy tay đứng dậy, ra ngồi ở bàn bếp và lật xem mấy cuốn sách vừa mượn của thư viện. Trước tiên tôi tìm ra tất cả các động vật có vú ăn cỏ cỡ trung, sau đó tôi xem bộ xương của chúng. Thì ra động vật có vú ăn cỏ cỡ trung đông hơn tôi tưởng cực nhiều. Riêng loài hươu đã có hơn ba chục nhánh được liệt kê.

Tôi lấy đầu lâu trên nóc ti vi đặt lên mặt bàn và so sánh nó với từng hình minh họa. Sau một tiếng tôi đã so sánh với chín mươi ba hình vẽ đầu lâu khác nhau; không hình nào giống cái đầu lâu trên bàn bếp. Thế thì tôi cũng bó tay. Tôi gập ba quyển sách lại, chồng lên nhau ở mép bàn, vươn vai đứng dậy. Chịu thôi.

Tôi bỏ cuộc, nằm lăn ra giường. Trong khi đang xem phim The Quiet Man của John Ford thì có tiếng chuông ở cửa. Qua lỗ nhòm tôi thấy một người đàn ông đứng tuổi mặc đồng phục của công ty cung cấp khí đốt Tokyo. Tôi để nguyên xích cửa, chỉ mở hé một khe nhỏ và hỏi ông ta cần gì.

“Kiểm tra định kỳ đường ống khí đốt”, ông ta nói.

“Đợi chút”, tôi nói và lấy con dao trên bàn phòng ngủ đút vào túi rồi mới mở cửa. Vừa tháng trước người ta đã kiểm tra độ kín của ống dẫn khí đốt rồi cơ mà. Thêm nữa là người đàn ông này có vẻ thiếu tự nhiên.

Tôi làm ra vẻ bất cần và xem phim tiếp. Trước tiên người đàn ông kiểm tra đường khí đốt trong nhà tắm bằng một chiếc máy trông như máy đo huyết áp, sau đó ra bếp. Cái đầu lâu vẫn nằm trên bàn bếp. Tôi để ti vi chạy tiếp và rón rén đi ra bếp; đúng như tôi nghĩ, gã đang đút cái đầu lâu vào một túi nylon đen. Tôi bật dao, nhảy một bước vào bếp, vòng tay kẹp cổ và chặn lưỡi dao đúng mũi gã đàn ông. Gã cuống cuồng thả rơi túi nylon xuống bàn.

“Tôi không có ý xấu”, gã run rẩy thanh minh. “Tôi nhìn thấy cái ấy và muốn lấy. Tôi chợt nổi máu tham. Tha lỗi cho tôi!”

“Quên đi!”, tôi cười khẩy. Một người của công ty khí đốt nhìn thấy cái đầu lâu trên bàn, nổi máu tham, muốn lấy – đã ai nghe thấy chuyện vô lý như thế chưa? “Khai thật ra, hay tao cắt cổ mày!”, tôi nói. Một câu nói dối trắng trợn, chỉ riêng gã là không ý thức được.

“Được rồi, được rồi, đừng làm gì tôi, tôi khai hết”, gã rền rĩ. “Người ta đã trả tiền để tôi đến đây ăn cắp nó. Hai người bắt chuyện với tôi ngoài phố, hỏi tôi có muốn kiếm ít tiền không, và cho tôi năm chục nghìn yên. Khi nào nộp cái đầu lâu thì tôi sẽ được thêm năm chục nghìn nữa. Tôi không muốn tí nào, nhưng một trong hai đứa trông như người khổng lồ. Thật đấy. Xin ông đừng giết tôi. Tôi có hai đứa con gái học trung học.”

“Cả hai học trung học?”

“Vâng. Lớp Mười và Mười hai.”

“Thật hả”, tôi hỏi. “Trường nào?”

“Đứa lớn học trường Shimura của thành phố, đứa nhỏ học trường Futaba ở Yotsuya”, gã nói. Sự kết hợp này cọc cạch đến nỗi chỉ có thể là sự thật. Tôi thấy tin gã được.

Cẩn thận chặn tiếp dao vào cổ gã, tôi nhón ví của gã từ túi quần sau ra xem. 67.000 yên, trong đó 50.000 yên là tiền mười nghìn mới cứng. Thẻ nhân viên của công ty khí đốt Tokyo, và một tấm hình màu chụp gia đình. Hai đứa con gái mặc kimono đại lễ. Cũng chẳng thuộc loại xinh đẹp gì. Do vóc người hai đứa như nhau nên khó nói đứa nào học trường Shimura và đứa nào học Futaba. Ngoài ra trong ví còn tấm vé tháng tuyến Sugamo-Shinanomachi. Gã đàn ông trông cũng không nguy hiểm nên tôi gập dao lại và thả hắn ra.

“Thôi, cút khỏi đây ngay!”, tôi nói và trả hắn ví.

“Cảm ơn ông”, gã nói. “Nhưng bây giờ thì sao? Tôi đã cầm tiền rồi, mà lại quay về tay trắng.”

Tôi cũng không rõ, tôi nói. Bọn ký hiệu sư – tôi đoán chúng là bọn ký hiệu sư – tùy tình thế mà có thể làm mọi trò. Và chúng ra tay rất có ý thức, để không ai dễ nhận ra thói quen hoạt động của chúng. Có thể chúng sẽ chọc mù mắt gã đàn ông. Cũng có thể chúng cảm ơn gã đã cố gắng và đưa nốt năm chục nghìn yên còn lại. Không ai đoán được.

“Một đứa trông như người khổng lồ, phải không?”, tôi hỏi.

“Vâng, to như voi. Còn đứa kia lùn tịt. Chưa tới mét rưỡi. Ăn mặc bảnh. Nói chung là một cặp đôi đáng sợ.”

Tôi chỉ cho gã cách đi từ bãi đỗ xe ra cửa sau. Cửa sau nhà này là một lối đi hẹp, từ ngoài khó nhìn thấy. Nếu gã gặp may thì không bị hay đứa kia phát hiện.

“Tôi rất biết ơn ông”, gã đàn ông thở phào. “Tôi được phép tin là ông sẽ không báo cho công ty tôi biết chứ?”

Tôi gật đầu. Rồi tống gã ra cửa, khóa lại và móc xích vào. Sau đó tôi ngồi vào bàn bếp, đặt con dao đã gập lưỡi lên bàn và lấy đầu lâu ra khỏi túi nylon. Ít nhất thì đã rõ một chuyện: bọn ký hiệu sư rình kiếm chiếc đầu lâu này, nghĩa là nó phải có ý nghĩa nào đó đối với chúng.

Hiện tại tôi và các ký hiệu sư đang ngang sức. Tôi có cái đầu lâu nhưng không biết ý nghĩa của nó. Bọn ký hiệu sư thì biết ý nghĩa – hoặc đoán được – nhưng lại không có đầu lâu. Một đều. Giờ thì tôi có thể lựa chọn giữa hai cách tiến hành. Cách thứ nhất là bắt liên lạc với Hệ thống, giải thích cho họ rõ vấn đề và yêu cầu được bảo vệ chống bọn ký hiệu sư hoặc chuyển đầu lâu vào nơi an toàn. Cách thứ hai: tôi liên hệ với cô gái mũm mĩm và bảo cô cho tôi biết ý nghĩa của cái đầu lâu. Trong hoàn cảnh hiện tại mà lôi Hệ thống vào cuộc thì tôi thấy không ổn. Hầu như chắc chắn người ta sẽ có ý định tiến hành kiểm tra tôi, rất phiền. Đơn giản là tôi không ưa các tổ chức cồng kềnh. Họ không linh hoạt, bất cứ việc gì cũng tốn thì giờ và công sức. Đơn giản là trên đời này khá đông kẻ ngu xuẩn.

Tuy nhiên cũng không thể liên hệ với cô gái béo: tôi không biết số điện thoại ở văn phòng cô. Tôi có thể tìm thẳng đến cô, nhưng bây giờ ra khỏi nhà thì khá nguy hiểm, vả lại dễ đoán là người ta không đơn giản để tôi bước vào tòa nhà văn phòng canh gác cẩn mật nọ.

Vậy là tôi quyết định không làm gì cả.

Tôi cầm kẹp gắp than inox gõ nhẹ lên đầu lâu lần nữa. Vẫn tiếng động như ban nãy. Nghe buồn bã thế nào ấy. Tựa như con thú lạ này còn sống. Nó còn sống và thở dài.

Vì sao đầu lâu phát ra tiếng động kỳ lạ này? Tôi cầm nó lên ngắm thật kỹ. Rồi tôi lấy kẹp gõ nhẹ lên lần nữa. Vẫn tiếng động cũ, nhưng nếu nghe thật chăm chú thì tôi cảm thấy âm thanh ấy dường như chỉ phát ra từ một điểm nhất định.

Tôi gõ đến lúc khoanh vùng được điểm đó. Tiếng động đến từ một vết lõm trên trán, đường kính khoảng hai phân. Tôi dùng một ngón tay khẽ sờ lên. Vết lõm nhám hơn xương xung quanh. Tựa như có gì bị bẻ ra khỏi vị trí này. Gì đó – cái sừng chẳng hạn…

Một cái sừng?

Nếu đúng thế thì tôi đang có đầu lâu một con thú một sừng trong tay. Tôi giở lại quyển Tranh và ảnh động vật có vú và tìm các động vật chỉ có một sừng. Không có, kiếm mãi cũng không thấy. Cùng lắm là có con tê giác, nhưng cả kích thước lẫn hình hộp sọ đều không đúng.

Tôi lấy đá trong tủ lạnh và pha một cốc Old Crow – tôi phải uống một chút. Đã sắp hết ngày, tôi thấy một cốc whiskey là hợp lý. Sau đó tôi ăn măng tây đóng hộp. Tôi rất khoái măng tây trắng. Xong món măng tây rồi ăn hai lát bánh mì gối kẹp hào xông khói. Sau đó lại một cốc whiskey.

Quyết định thực dụng của tôi: cái đầu lâu này ngày xưa thuộc về một con kỳ lân. Ngoài ra thì tôi cũng tắc tị.

Tôi có một cái đầu kỳ lân trong tay.

Được đấy, tôi nghĩ, được đấy chứ. Vì sao lại liên tục xảy ra những chuyện kỳ quái thế này? Và tại sao xảy ra với chính tôi? Tôi là một toán sư có tính thực tế và công tác độc lập, không hơn không kém. Tôi không nhiều kỳ vọng quá mức mà cũng chẳng tham lam. Tôi không có gia đình, không có bạn bè, không có người yêu.

Tôi là một người cố dành dụm càng nhiều càng tốt và sau quãng đời toán sư sẽ sống một cảnh hưu trí bình lặng, học đàn vi ô lông xen chẳng hạn, hoặc tiếng Hy Lạp. Vì sao chính tôi lại bị dây dưa với những trò ngớ ngẩn như kỳ lân và tắt âm thanh?

Tôi uống hết cốc whiskey thứ hai, vào phòng ngủ, tìm trong danh bạ số điện thoại của thư viện thành phố, quay số và xin gặp quầy thông tin. Mười giây sau, cô gái tóc dài cầm máy.

“Tranh và ảnh động vật có vú”, tôi nói.

“Cảm ơn anh mua kem”, cô nói.

“Chuyện nhỏ ấy mà”, tôi nói. “À, tôi có một nguyện vọng nữa, được không?”

“Tùy xem nguyện vọng gì đã”, cô nói.

“Cô có thể tìm hộ tôi xem có tài liệu gì về kỳ lân không?”

“Thú-một-sừng?”, cô lặp lại.

“Đòi hỏi quá nhiều chăng?”

Im lặng. Có lẽ cô gái đang cắn lên môi dưới.

“Anh muốn biết gì về thú một sừng?”

“Tất cả”, tôi nói.

“Anh nghe đây, bây giờ là năm giờ kém mười, thư viện sắp đóng cửa và có rất nhiều việc phải làm. Bây giờ tôi không làm được. Vì sao anh không tới đây sáng mai, khi thư viện vừa mở cửa? Anh có thể tìm bao nhiêu tài liệu cũng được, về một sừng một siếc gì đó thì tùy.”

“Việc này cực kỳ khẩn cấp và cực kỳ quan trọng.”

“Ra thế, quan trọng đến mức nào?”

“Quá trình tiến hóa phụ thuộc vào nó.”

“Quá-trình-tiến-hóa?”, cô nhắc lại, giờ đã có vẻ giật mình. “Anh không định nói đến quá trình tiến hóa diễn ra trong hơn cả một triệu năm đấy chứ? Xin lỗi, nếu tôi hiểu nhầm, nhưng tôi không rõ tại sao lại khẩn cấp đến mức không đợi thêm được một ngày.”

“Có quá trình tiến hóa cần một triệu năm và có quá trình tiến hóa diễn ra trong ba tiếng đồng hồ. Tôi không giải thích qua điện thoại được. Cô hãy tin tôi. Việc này cực kỳ quan trọng. Bước phát triển tiếp theo của nhân loại phụ thuộc vào nó.”

“Như trong phim 2010: A Space Odyssey?”

“Chính xác”, tôi nói. Tôi đã xem phim này trên video không nhớ bao lần.

Cô không nói gì một hồi lâu.

“Cô đang phân vân liệu tôi có phải là một kẻ kỳ quặc hay thiểu năng, đúng không?”

“Anh đã hiểu đúng ý tôi”, cô nói.

“Tôi không điên”, tôi nói. “Có thể không ít thì nhiều tôi là một người lập dị và ngang ngạnh. Cũng có người ghét tôi, nhưng chưa ai bảo là tôi điên.”

“Được rồi, được rồi, anh nói không như một người điên. Có vẻ anh cũng không hẳn là một người xấu, ngoài ra anh còn mua kem cho tôi nữa. Thôi được. Sáu rưỡi. Ta gặp nhau trong tiệm cà phê cạnh thư viện. Tôi sẽ đem sách theo. Thế được chưa?”

“Tiếc rằng sự việc lại không đơn giản thế. Tôi không thể đi vào chi tiết, nhưng bây giờ tôi không thể ra khỏi nhà. Xin lỗi cô, nhưng…”

“Ý anh là…”, cô ngập ngừng. Tôi nghe cô lấy móng tay gõ lên răng cửa. “Anh đòi tôi đem sách đến nhà anh chứ gì. Bây giờ thì anh điên thật rồi.”

“Một ý tưởng vĩ đại”, tôi ngượng ngập nói. “Tuy vậy, tất nhiên, tôi không đòi, tôi chỉ hỏi thôi.”

“Anh hỏi hơi quá quắt đấy.”

“Tôi biết, tôi biết. Nhưng cô không thể tin được chuyện gì đang xảy ra đâu.”

Lại im lặng một hồi lâu. Cô im lặng chứ không phải âm thanh bị tắt đi, có thể nhận ra điều đó qua tiếng nhạc văng vẳng phía sau. Giai điệu Annie Lowly thông báo thư viện đã đến giờ đóng cửa.

“Tôi làm việc ở thư viện này đã năm năm rồi, nhưng tôi chưa gặp một khách mượn sách nào trơ tráo như anh”, cô nói. “Đòi mang sách đến tận nhà. Ngay lần đầu! Anh có thấy như thế là quá quắt không?”

“Có, tôi cũng thấy thế. Tôi rất áy náy. Tôi biết đây là một ngoại lệ lớn, nhưng tôi không có sự lựa chọn nào khác.”

“Tôi không rõ tại sao mình lại nhận làm việc này nữa. Đi đường nào đến nhà anh đây?”

� �nP�:�;�i.

“Mà là…?”

“Chuỗi ngẫu nhiên, anh bạn trẻ ạ. Tôi nói đến chuỗi ngẫu nhiên. Tôi muốn anh rửa số và sắp xếp lại theo dạng tình cờ. Vì vậy tôi mới gọi anh. Chỉ rửa số thôi thì gọi người khác cũng được.”

“Ông đánh đố tôi”, tôi nói và vắt chân chữ ngũ. “Ông lấy thông tin này từ đâu ra? Chuỗi số ngẫu nhiên là chuyện tối mật, người ngoài không ai biết cả.”

“Nhưng tôi biết. Tôi có quan hệ với các nhân vật cấp cao trong hệ thống.”

“Thế thì ông hãy dùng đường dây ấy để hỏi lại xem: phương pháp chuỗi số ngẫu nhiên đã bị đình chỉ. Tôi không biết tại sao. Chỉ biết là cấm không được sử dụng nữa. Nếu lộ ra người nào sử dụng thì rút giấy phép là nhẹ nhất.”

Ông già lại chìa cặp tài liệu đựng giấy ủy thác ra. “Anh đọc trang cuối đi. Trong đó nhất định có cả giấy phép sử dụng phương pháp chuỗi số ngẫu nhiên đấy.”

Theo lời ông, tôi lật trang cuối ra đọc kỹ. Được phép sử dụng hệ thống chuỗi số ngẫu nhiên, không nghi ngờ gì cả. Tôi đọc đi đọc lại. Chính xác. Năm chữ ký. Có trời mà biết mấy vị trên kia có những trò ngấm ngầm gì. Bảo người ta đào hố rồi lại lấp đi. Lấp xong rồi lại đào lại. Chỉ khổ mấy quân tốt đen.

“Ông cho tôi tất cả các giấy tờ giao nhiệm vụ một bản màu. Nếu xảy ra truyện gì mà không giải trình được thì tôi sẽ bị rắc rối to.”

“Không thành vấn đề”, ông già nói. Anh sẽ được nhận bản sao. Anh không phải lo lắng gì cả. Giấy tờ nghiêm chỉnh và chặt chẽ đến từng dấu phẩy. Thù lao của anh hôm nay tôi trả một nửa, nửa kia trả khi nộp dữ liệu. Được chứ?”

“Rất tốt. Rửa số thì tôi làm ngay ở đây. Số đã rửa rồi thì tôi sẽ đem về để sắp xếp theo dạng ngẫu nhiên ở nhà. Việc này cần mấy bước chuẩn bị. Sau khi hoàn thành các dữ liệu thì tôi lại đem qua đây.”

“Nhưng chậm nhất là ba ngày nữa, vào giữa trưa tôi cần chúng…”

“Đủ thời gian”, tôi nói.

“Nhưng anh không được phép trễ vì bất cứ lý do gì”, ông già nhấn mạnh. “Nếu anh đến chậm thì hậu quả sẽ rất kinh khủng.”

“Gì cơ? Thế giới sẽ sụp đổ hay sao?”, tôi hỏi đùa.

“Xét về mặt nào đó thì đúng đấy”, ông già nói đầy ẩn ý.

“Ông đừng sợ. Tôi chưa trễ hẹn một lần nào hết”, tôi nói. “Nếu được thì cho xin một phích cà phê đen nóng, và nước đá. Và một bữa ăn tối nhẹ để vừa làm vừa ăn. Tôi có cảm giác là sẽ lâu đây.”

Quả thật công việc kéo dài khá lâu. Sắp xếp con số theo thứ tự là một việc tương đối đơn giản, nhưng có nhiều giá trị bậc gắn liền với trường hợp cụ thể, khiến việc tính toán trở nên mệt nhọc hơn tôi nghĩ khi mới ngó qua. Trong khi tính toán, tôi đưa các số vào bán cầu não phải, sau khi chuyển chúng thành ký hiệu khác hẳn thì lại đưa sang bán cầu não trái là nơi tôi biến các ký hiệu nhận được của bán cầu não phải một lần nữa thành các số khác hẳn, trước khi tôi đánh máy viết chúng ra giấy. Việc này gọi là rửa số – cách miêu tả ở trên đã được đơn giản hóa nhiều. Mỗi toán sư có một mật mã riêng. Nó khác dãy số tự nhiên hỗn loạn ở tính chất biểu đồ. Bí quyết nằm trong đường biên hình răng cưa giữa nửa phải và nửa trái của não (tất nhiên đây chỉ là cách phân chia cho dễ giải thích, chứ thực tế không có phân chia phải trái). Vẽ ra biểu đồ trông như sau:

Nói cách khác, nếu hai mảnh răng cưa không khớp nhau hoàn toàn thì không thể biến những con số đã biến chuyển trở lại thành dữ kiện nguyên thủy được. Tuy nhiên giới ký hiệu sư vẫn cố nhận dạng các dữ liệu đánh cắp được bằng cách bắc cầu tạm: chúng tái tạo các giá trị số đã được phân tích thành dạng biểu đồ răng cưa ba chiều. Lúc được, lúc không. Chúng tôi cải tiến kỹ thuật của mình tinh vi hơn thì chúng cũng chế vũ khí chống lại tinh vi hơn. Chúng tôi bảo vệ dữ liệu, bọn chúng đánh cắp dữ liệu. Trò cảnh sát và kẻ cướp kinh điển.

Bọn ký hiệu sư chủ yếu tung các dữ liệu đánh cắp được ra chợ đen và đạt lợi nhuận khổng lồ. Trường hợp tệ nhất là chúng giữ lại các dữ liệu quan trọng nhất, đem sử dụng trong tổ chức riêng của mình để sinh lợi.

Tổ chức chúng tôi được gọi là Hệ thống, tổ chức của ký hiệu sư là Nhà máy. Ban đầu, Hệ thống là tổ hợp của vô số hãng tư nhân, dần dần họ phát triển về tầm cỡ và mang bản chất nửa nhà nước. Về cơ cấu, không khác mấy so với công ty điện thoại Bell Company của Mỹ. Các toán sư hoạt động độc lập trên cơ sở tự quản, giống như cố vấn tài chính hay luật sư. Nhưng họ phải có giấy phép hành nghề do nhà nước cấp và chỉ được nhận đặt hàng của Hệ thống hay các đại lý có chứng chỉ. Đó là một biện pháp bảo vệ để chống bị Nhà máy lạm dụng, ai vi phạm sẽ bị kỷ luật hay rút giấy phép hành nghề. Tôi e là không phải trong trường hợp nào biện pháp này cũng thích hợp. Các toán sư mất giấy phép thường được Nhà máy chiêu mộ, nghĩa là họ biến thành ký hiệu sư hoạt động bí mật.

Tôi không rõ cơ cấu của Nhà máy. Nó khởi nguồn từ một doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và bành trướng nhanh đến chóng mặt. Có người gọi Nhà máy là “mafia dữ liệu”, và quả thực cũng có sự tương đồng với mafia là Nhà máy chỉ duy nhất buôn bán dữ liệu. Nhà máy giám sát có chủ ý các máy tính để đột nhập vào.

Tôi rửa số; trong khi làm tôi uống hết ấm cà phê. Làm một tiếng, nghỉ nửa tiếng – đúng quy định. Làm khác đi thì nửa phải và nửa trái của óc không rập khớp nhau, và giá trị số sẽ bị nhiễu loạn.

Trong các lần nghỉ nửa tiếng tôi nói chuyện với ông già về đủ mọi chuyện trời đất. Nói chuyện, bất kể về đề tài gì, là phương pháp tốt nhất để bộ não mệt mỏi tái tạo sức lao động.

“Những số này là gì vậy?”, tôi hỏi.

“Số đo trong thí nghiệm”, ông già nói. “Kết quả của một năm nghiên cứu. Hình ba chiều thể hiện thể tích của xương sọ và khẩu cái được số hóa liên kết với phân tích ba nhân tố của các âm thanh phát ra. Tôi đã kể ban nãy là tôi mất ba chục năm để nghe được các âm thanh do xương sọ phát ra: nếu tính toán xong xuôi thì chúng ta sẽ đạt trình độ không chỉ thu được âm thanh một cách thụ động, mà còn biết được cơ sở lý thuyết của chúng nữa.”

“Và điều khiển được chúng?”

“Đúng thế”, ông già nói.

“Điều khiển chúng sẽ có ích lợi gì?”

Ông già liếm môi trên và im lặng hồi lâu. “Sẽ có đủ kiểu lợi ích trên đời. Tôi không thể cho anh biết được, nhưng đó là những khả năng mà anh nằm mơ cũng không thấy nổi.”

“Tắt âm thanh đi chẳng hạn?”, tôi hỏi.

“Trúng đích, chính xác, hô hô hô.” Ông già cười khoái trá. “Có thể kết hợp vào tín hiệu vốn có của xương sọ người và tắt âm thanh đi hay chỉnh to lên. Hình dáng hộp sọ mọi người rất khác nhau nên không thể tắt hẳn âm thanh được, nhưng có thể chỉnh cho khẽ hẳn đi. Nói đơn giản là làm cho các sóng âm thanh và sóng phản âm thanh cộng hưởng với nhau. Việc tắt âm thanh là một trong những kết quả nghiên cứu vô hại nhất của tôi.”

Nếu đó là chuyện vô hại thì tôi có thể mường tượng ra các kết quả còn lại sẽ kinh khủng đến chừng nào. Nghĩ đến việc ai cũng có thể tắt hoặc tăng âm thanh là tôi sởn hết cả gai ốc.

“m thanh có thể tắt theo hai chiều, chiều nói và chiều nghe”, ông già nói. “Chiều nghe là ví dụ như tiếng nước réo ban nãy, đồng thời ta cũng có thể tắt cả chiều nói. Nói thuộc về hành vi của cá nhân, có thể tắt đến một trăm phần trăm được.”

“Ông có muốn công khai các kết quả ấy không?”

“Có mà dở hơi mới làm thế. Không”, ông già phẩy tay. “Một chuyện thú vị như vậy không khi nào tôi lại đưa cho người lạ. Tôi chỉ làm để tự giải trí thôi.” Ông lại cười hô hố. Tôi cũng cười.

Tôi chỉ định đăng thành quả nghiên cứu của mình lên tạp chí chuyên ngành, mà chẳng có ai hứng thú với âm thanh học cả, ông nói. “Còn lũ học giả bình thường thì quá ngu để có thể hiểu luận thuyết của tôi. Thêm nữa là giới hàn lâm có thèm đếm xỉa đến tôi đâu.”

“Giới ký hiệu sư cũng không ngu đâu. Về mặt giải mã thì bọn họ là những thiên tài. Họ đọc các kết quả của ông như đọc một cuốn sách mở ấy chứ.”

“Tôi đã phòng xa rồi. Tôi đăng bài hoàn toàn ở dạng giả thuyết, không kèm dữ liệu, không mô tả tiến trình. Bọn nó sẽ không bao giờ hiểu nổi đâu. Giới khoa học không để ý đến tôi, nhưng có hề gì! Một trăm năm nữa luận thuyết của tôi sẽ được chứng tỏ là đúng, với tôi thế là đủ.”

“Hừm”, tôi thốt lên.

“Vì vậy anh hãy rửa và đảo số đi.”

“Vâng”, tôi nói, “thưa ông.”

Trong giờ tiếp theo tôi tập trung tinh thần tính toán. Rồi đến giờ nghỉ.

“Xin hỏi một câu nữa”, tôi nói.

“Anh hỏi đi”, ông già đáp.

“Về cô gái ở cửa. Đậm người, vận đồ màu hồng…”

“Đó là cháu tôi”, ông già nói. “Con bé rất có năng khiếu, tuy còn trẻ nhưng đã giúp tôi nhiều việc nghiên cứu.”

“Câu hỏi của tôi là: cô ấy bị câm, hay chỉ nói theo cách mà ông đã tắt tiếng đi?”

“Thôi chết”, ông già đập tay lên đầu gối. “Tôi quên béng đi mất! Xong thí nghiệm rồi mà không chỉnh lại bình thường… Chết chết, tôi phải ra làm ngay.”

“Vâng”, tôi nói.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN