Anh Hùng Bắc Cương
Chương 20: Dư Âm Bạch-đằng
Dư âm Bạch-Đằng — –
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng chắp tay hành lễ:
– Lý Mỹ-Linh, Thân Thiệu-Thái xin ra mắt hậu duệ của Ngô đại-vương. Mong tỷ tỷ thứ cho tội quấy rầy.
Nữ lang đáp lễ, rồi chỉ về phía ngư nhân chạy:
– Chúng ta mau đuổi theo.
Mỹ-Linh mỉm cười, nhìn lên trời, đôi thần ưng bay lượn không xa làm bao:
– Tỷ tỷ đừng sợ mất tích bốn người này. Họ vẫn ở phía trước kia, chưa đi xa đâu. Mà dù có xa, chúng ta cũng tìm cược. Khi họ muốn trêu chúng ta, thì chúng ta cứ ngồi đây, khắc họ tự dẫn thân tới.
Nữ lang nhìn xuống suối, rồi lại mơ màng ngắm trăng:
– Đêm thanh trắng sáng đẹp thế này, bỏ qua thực uổng. Vậy mời Công-chúa, Giáo-chủ xuống suối, chúng ta ngắm trăng hầu chờ bốn ngư nhân.
Ba người chọn ba tảng đá bên giòng suối. Mỹ-Linh, nữ lang tháo dầy, ngâm chân xuống nước. Thiệu-Thái hỏi:
– Tỷ tỷ! Tỷ tỷ khéo chọn khung cảnh u nhã này để ở, thực còn hơn tu tiên. Có điều, đường từ đây ra trấn hơi xa.
Nữ lang ngửa mặt nhìn trăng, thở dài não nùng:
– Giáo chủ đang bận quốc sự, thì muốn sống yên tĩnh. Còn ngược lại tôi đang ở trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng, lại muốn thoát khỏi cảnh này. Sự thực, tôi nào có muốn giam mình trong rừng đâu. Chẳng qua do hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi.
Mỹ-Linh ngập ngừng:
– Nghĩa là???
– Tôi không tự làm chủ được, mà bị người ta kiềm chế.
Mỹ-Linh muốn nữ lang tự mình nói ra, nên nàng đưa mắt cho Thiệu-Thái ngụ ý bảo chàng yên lặng. Quả nhiên nữ lang nhìn trăng một lúc rồi thở dài:
– Để tôi thuật hoàn cảnh của mình cho giáo chủ cùng công chúa nghe.
Nữ lang vục tay xuống suối. Nước bắn tung toé lên, như những thanh vàng óng ánh, rồi thuật:
_Tôi họ Ngô tên Cẩm-Thi, thuộc giòng dõi Ngô vương tộc Việt. Tổ phụ tôi, nhân dẹp Kiều Công-Tiễn, phá Nam-Hán ở sông Bạch-Đằng, lập nền chính thống Đại Việt vào năm Kỷ-Hợi (939). Như các vị biết, tộc Việt bị nhà Đông Hán đem quân nghiêng nước sang đánh. Vua Trưng tuẫn quốc ở Cẩm-khê. Trải hai trăm lẻ năm năm sau, Triệu nương lại khởi binh ở Cửu-chân, bị Ngô dẹp. Từ đấy, tộc Việt chìm đắm trong đêm dài vô tận. Mãi hai trăm chín mươi sáu năm dài, vua Lý Nam-Đế mới khởi nghiệp, lập ra nhà tiền Lý vào năm Giáp-Tý (544). Đến năm Nhâm-Tuất (602) lại bị Tùy diệt. Rồi năm Nhâm-Tuất (722) Mai Hắc-Đế khởi binh, nhưng chỉ như tia lửa lóe lên trong đêm dài. Qua sáu mươi chín năm sau, Bố-Cái đại vương khởi binh vào năm Tân-Mùi (791), rồi cũng không được bao nhiêu năm. Nối tiếp, họ Khúc, họ Dương tuy có khởi binh, song vẫn chỉ là chức quan của Trung-quốc. Phải đợi đến cao tổ phụ tôi, mới thực sự tạo dựng một triều đại mới.
Mỹ-Linh thuộc làu giai đoạn lịch sử này:
– Cứ như quan thái sử bản triều chép, Ngô vương húy Quyền, tướng như sư tử, vai như gấu, lưng như hổ, uy mãnh không ai bì kịp. Vương xuất thân đệ tử của đại vương Dương Diên-Nghệ. Được Dương vương tuyển làm phò mã. Nhân Kiều Công-Tiễn ám sát Dương vương. Ngô vương dấy binh trả hận. Kiều Công-Tiễn sai sứ sang cầu cứu Nam-Hán. Nam-Hán sai Thái-tử Hoằng-Thao đem quân cứu Tiện. Ngô vương đại phá quân Nam-Hán ở sông Bạch-Đằng, giết Hoằng-Thao. Ngài lên ngôi vương, lập triều đình, đặt quan chức. Tộc Việt lại phục hưng thành một quốc gia có chính thống.
Cẩm-Thi gật đầu:
– Công-chúa bác học thực! Sau khi thành đại nghiệp, cao tổ tôi chỉ ở ngôi được sáu năm, rồi băng hà (945). Khi người hấp hối, có ủy thác con côi Xương-Ngập cho em vợ tên Dương Tam-Kha. Không ngờ Tam-Kha cướp ngôi của cháu. Xương-Ngập chạy trốn về Nam-sách. Sáu năm sau, tổ phụ tôi húy Xương-Văn đã lớn. Người xuất lĩnh quần thần đuổi Tam-Kha, được anh hùng tôn làm Nam-Tấn vương. Bấy giờ anh người tên Xương-Ngập xuất hiện. Người cho đón về. Hai anh em cùng coi triều chính.
Nữ lang nhìn lên trời, như nhớ lại công đức tổ tiên, rồi tiếp:
– Năm Ất-Sửu (965), tổ phụ tôi thấy thế nước suy vi, mà bên Trung-nguyên, nhà Tống thống nhất đất nước. Tôi không nhớ bấy giờ đã được mấy năm.
Mỹ-Linh tính đốt ngón tay:
– Bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu Càn-đức thứ ba, đời vua Tống Thái-tổ.
– Phải rồi! Tổ phụ tôi sai hai vị đại thần, cùng phụ thân tôi sang sứ nước Ngô-Việt, bàn nhau đào kho tàng Tần-Hán lên, làm phương tiện kiến quốc.
Thiệu-Thái ngạc nhiên:
– Kho tàng Tần-Hán ở Quảng-Đông, sao triều Ngô không đến Quảng-Đông đào lên, mà phải sai sứ sang Ngô-Việt?
Nữ lang lắc đầu:
– Giáo-chủ quên sử rồi! Quảng-Đông lộ, tức chỗ chúng ta ngồi đây, hồi đó thuộc nước Ngô-Việt, rồi Nam-Hán. Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc, hào kiệt Tượng-quận nổi lên lập ra nước Đại-lý. Hào kiệt Nam-hải, Quế-lâm lập ra Ngô-Việt. Hào kiệt Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-Nam lập ra Đại-Việt.
Mỹ-Linh gật đầu:
– Tôi nghe, khi Thái-tử của Nam-tấn vương cùng hai đại thần ra khỏi biên cương, ở nhà vương băng. Trong nước lâm tình trạng mười hai sứ quân. Rồi sau sử không nói rõ việc đào kho tàng đi đến đâu.
Nữ lang buồn bã:
– Vì ở Đại-Việt, Ngô triều mất, hai vị đại thần thấy nếu mình đem vụ kho tàng ra, không chừng bị triều Ngô-Việt hại là khác. Vì vậy hai vị, một văn, một võ đem phụ thân tôi tiềm ẩn ở trong thung lũng này, âm thầm tìm kho tàng. Nhưng… nhưng tìm kiếm nhiều lần, tốn biết bao tâm huyết, mà có kho tàng ở đâu?
Thiệu-Thái hơi có vẻ tin lý luận của Ngô Cẩm-Thi:
– Tại hạ cũng nghĩ như vậy. Dường như thời vua Trưng, ba vị tài trí nhất thời bấy giờ là Phương-Dung, Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa bàn nhau đặt ra câu truyện kho tàng với ngụ ý gì, trải qua gần nghìn năm, đời đời lưu truyền miệng, bị thất truyền chăng?
Cẩm-Thi nhăn mặt:
– Khổ một điều thời bấy giờ vua Trưng truyền chép Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ, mật dụ kho tàng chung với nhau. Có tất cả mười bản. Khi vua Trưng tuẫn quốc, không biết mười bản đó lưu truyền ở những địa phương nào, vào tay gia nào, phái nào. Mà hiện nay, bên Trung-nguyên từ Lưu hậu, Bình-Nam vương, cho đến bang Nhật-Hồ đều gửi người về tìm. Bên Đại-Việt, thì Lạc-long giáo, bên Chiêm-thành phái Phật-thệ cũng có người đến tìm. Ôi kho tàng ở đâu không biết, mà máu đổ thành sông, thành ao rồi! Chính phụ thân tôi, có bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng binh yếu chỉ cùng mật dụ kho tàng, mà khi giữ chức Phụ-quốc thái úy, đã đem hàng chục vạn binh tướng, lật từng viên đá, từng gốc cây tìm, nào có thấy?
Mỹ-Linh tính đốt ngón tay, rồi nói:
– Sử chép, Thái-tử của Nam-tấn vương húy Xương-Anh, mới mười lăm tuổi. Nếu người còn tại thế, năm nay đúng bẩy mươi bẩy tuổi. Như vậy tỷ tỷ là con của người?
Ngô Cẩm-Thi gật đầu:
– Hai vị cựu thần cho người về đón vợ con qua, rồi ẩn ở đây, dạy phụ thân tôi. Phụ thân tôi kết hôn với con gái vị quan võ. Tôi là con út của người. Tất cả ẩn nhẫn, chờ ngày hồi cố quốc, tái lập nền chính thống. Nhưng trong khi đó, ở Đại-Việt, vua Đinh dẹp mười hai sứ quân, rồi vua Lê kế sự nghiệp tổ tiên đánh Tống. Và gần đây, triều Lý đem nhân nghiã trị dân. Vì vậy, phụ thân tôi, cùng con cháu hai đại thần bỏ ý định về nước tranh ngôi vua. Vì làm như thế, chỉ giúp thêm cho Tống mang quân sang đánh, chẳng hoá ra chúng tôi cũng giống như Kiều Công-Tiễn hay sao?
Thiệu-Thái ngắt lời:
– Tôi nghe, Ngô vương vốn xuất thân phái Cửu-chân. Như vậy võ công cô nương là võ công Cửu-chân mới phải. Ban nãy cô nương xử dụng thế khinh thân đuổi theo ngư nhân lại thuộc phái Khúc-giang. Không biết bên trong còn có uẩn khúc gì không?
– Giáo chủ minh mẫn thực. Cao tổ nhà tôi, Ngô vương tìm được bộ Lĩnh-Nam vũ kinh bản của phái Tản-viên. Nhân người thuộc đệ tử Cửu-chân, nên biết hết thuật ngữ phái này, do đó luyện thành. Khi tổ phụ tôi sai phụ thân tôi sang Ngô-Việt, người trao bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, cùng mật ngữ cho. Ngược lại vị võ quan theo phu thân tôi thuộc phái Khúc-giang, nên ông biiết mật ngữ phái này, rồi chiếu theo vũ kinh, luyện cũng thành. Tôi được phụ thân luyện cho võ công Cửu-chân, thân mẫu luyện cho võ công Khúc-giang.
Cẩm-Thi tiếp:
– Khi anh hùng hào kiệt tộc Việt khởi nghiệp từ Khúc-giang, tái lập nước Ngô-Việt, tôn họ Tiền lên làm vua. Phụ thân tôi cùng con cháu hai di thần Ngô triều, gạt bỏ hết những gì mưu tái lập sự nghiệp tổ tiên ở Đại-Việt. Tất cả cùng hào kiệt tộc Việt đứng dậy. Do đó triều đại Ngô-Việt tái lập. Phụ thân tôi được vua Ngô-Việt phong làm Tả tướng quốc, phụ quốc thái úy, quản Khu-mật viện, tước Khúc-giang vương. Con cháu hai vị cựu thần Ngô triều, một được phong Thái-phó, Đồng bình chương sự, tước Thường-sơn công, kiêm binh bộ thượng thư. Một được phong Thái-bảo, Bình-chương sự kiêm lại bộ thượng thư, tước Hành-sơn công.
Mỹ-Linh gật đầu tỏ ra hiểu biết:
– Giai đoạn này, quan thái sử bản triều có chép. Thì ra khi cầm gươm khởi nghĩa, Ngô bá bá không giữ tên cũ, mà đổi thành Ngô Quảng-Thiên. Còn con cháu hai vị đại thần, một tên Đào Tường-Phúc một tên Chu Bội-Sơn.
– Đúng thế! triều Ngô-Việt thấy mình chiếm vùng Quế-lâm, Nam-hải thời Lĩnh-Nam, như vậy chỉ mới đòi được phần đất phía Bắc thời vua Trưng. Anh hùng Ngô-Việt muốn kết hợp với anh hùng Tượng-quận nay thành nước Đại-Lý. Anh hùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-Nam, nay thành Đại-Việt. Cả ba thống nhất, thì chúng ta sẽ trở lại nước hùng mạnh như thời Lĩnh-Nam.
Thiệu-Thái suýt xoa:
– Chí khí các bậc tiền nhân thực vĩ đại. Nếu như việc đó thành, chúng ta tiến tới thống nhất tộc Việt, tức nhóm Việt-Thường trốn lạnh vào Nam, nay thành Chiêm-thành, Chân-lạp, Xiêm-la, Lão-qua. Sau đó tạo hạnh phúc cho dân như thời vua Hùng, vua Trưng, thực là truyện thống khoái kim cổ… Tỷ tỷ! Sao việc đó lại bỏ dở?
– Đâu có bỏ dở? Bấy giờ bên Đại-Việt vua Đinh mới thống nhất đất nước. Lòng người chưa yên, nội trị bấp bênh, kho lẫm trống rỗng, chỉ mong giữ vững cơ đồ cũng may lắm rồi. Cho nên khi sứ thần Ngô-Việt sang triều kiến. Vua Đinh hứa rằng nếu Tống xâm lăng Ngô-Việt, Đại-Việt sẽ đánh trở lên, để chia thế lực Tống. Còn bên Đại-lý Đoàn Tố-Thuận mới lên ngôi, tuổi còn trẻ. Trong triều lại thiếu người hùng tâm tráng trí, kết cuộc vẫn mong bảo vệ bờ cõi.
Tuy biết rằng cuộc thống nhất tộc Việt của anh hùng Ngô-Việt không thành, nhưng Thiệu-Thái, Mỹ-Linh vẫn hồi họp theo dõi.
Thiệu-Thái lắc đầu:
– Như vậy thì đại cuộc hỏng mất rồi! Triều Tống vốn yếu hèn run sợ trước các nước phía Bắc, nên kỳ vọng vào những gì ở phương Nam. Họ thấy anh hùng Ngô-Việt sáng chói, tất dồn nỗ lực đánh Ngô-Việt trước. Ngô-Việt mới lập, quân chưa tinh, tướng chưa đủ kinh nghiệm, nội trị lỏng lẻo, quốc dụng thiếu thốn. E cự không lại.
– Đúng thế. Bấy giờ là niên hiệu Thái-bình hưng quốc thứ ba đời Tống Thái-tông. Bên Đại-Việt, thuộc niên hiệu Thái-bình thứ chín của vua Đinh. Vua Đinh truất phế con trưởng là Nam-Việt vương Đinh Liễn, lập con thứ Hạng Lang làm Thái-tử. Nam-Việt vương giết Hạng Lang, rồi Đỗ Thích ám sát vua Đinh cùng Nam-Việt vương. Đúng lúc đó Tống đem đại binh đánh Ngô-Việt.
Mỹ-Linh than:
– Giặc ngoài luôn luôn để hàng nghìn mắt, hàng vạn tai nghe ngóng động tĩnh của mình. Hễ mình có biến cố bất lợi, lập tức họ đem quân qua. Tỷ tỷ! Tôi không thấy sử gia chép cuộc kháng chiến chống Tống của Ngô-Việt ra sao. Xin tỷ tỷ thuật chi tiết cho anh em chúng tôi được rõ.
Cẩm-Thi thở dài:
– Tống sai sứ sang triều Ngô-Việt, bắt phải tuân theo ba điều kiện:
Một, bỏ quốc hiệu Ngô-Việt, đổi thành quận Giao-châu. Bỏ niên hiệu, chỉ dùng niên hiệu Tống.
Hai là vua Ngô-Việt phải đến Biện-kinh triều kiến Tống đế, nhận sắc phong làm Ngô-Việt quận vương.
Thứ ba, phải chịu binh dịch.
Tống sẽ cử trọng binh xuống trấn đóng. Quân đội có sẵn đặt dưới quyền thống lĩnh của Khu-mật viện Tống triều.
Thiệu-Thái nổi giận:
– Như vậy có khác chi đầu hàng. Tôi chắc triều đình Ngô-Việt không chịu.
Ngô Cẩm-Thi rơm rớm nước mắt:
– Thế là trong triều Ngô-Việt chia làm hai phe. Phe chủ chiến gồm phụ thân tôi, cùng với Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn và các tướng thuộc con em đệ tử phái Khúc-giang. Phe chủ hoà gồm hầu hết các quan còn lại. Quan trọng nhất họ Tiền, đang ở ngôi vua, lại chủ hoà. Đa số đại thần chủ hoà gốc người Hoa.
Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
– Các quan trong triều, nhiều người gốc Hoa lắm sao?
– Ba phần tư!
– Sao kỳ vậy?
– Công-chúa hiểu cho. Ngay từ thời vua Trưng, cách đây gần nghìn năm, người Hoa đã chiếm phân nửa dân Nam-hải rồi. Huống hồ sau gần nghìn năm Bắc thuộc, số người Việt còn lại không làm bao. Người Hoa, người Việt ở vùng Lưỡng-Quảng coi Ngô-Việt cũng như Bắc-Hán, Nam-Đường… nghiã là người Hoa nổi lên chiếm giang sơn, chứ không phải do tộc Việt quật khởi… Sau ba ngày luận bàn, phụ thân tôi cùng hai vị sư thúc Đào, Chu, con em đệ tử Khúc-giang đồng từ chức, lui về ẩn trong thôn dã, để triều Ngô-Việt chịu sắc phong của Tống. Đại binh Tống tiến vào. Vua cùng đại thần ra đón. Tướng Tống cho phục binh bắt vua cùng đại thần Ngô-Việt đem về Biện-kinh. Mỗi người đều được phong chức tước thực lớn, nhưng không trao cho quyền bính. Các võ quan gốc Hán được xung vào đạo quân đánh vua Lê Đại-Hành, còn gốc người Việt được chuyển lên phía Bắc đánh Bắc-Hán.
– Thế là hỏng đại cuộc. Dân chúng, quan lại các nơi chịu tuân phục ư?
– Tống Thái-tông rất khôn ngoan. Phàm quan lại địa phương, văn võ đều được thăng một trật, vẫn cho giữ chức vụ cũ. Các quan Hán từ trước đến giờ đều nghĩ rằng họ làm quan với ông vua Việt ở một góc biên thùy, chẳng khác chi giặc cỏ. Nay họ được làm mệnh quan đại triều. Họ cầu mà không được.
Mỹ-Linh thở dài:
– Bấy giờ dường như tỷ tỷ chưa ra đời thì phải?
– Đúng thế. Khi Tống chiếm Ngô-Việt, vua Thái-tông sai sứ đến đây mời phụ thân cùng Đào, Chu nhị thúc ra làm quan. Cả ba người đều từ chối, xin cho được yên vui với cỏ cây. Cả ba hứa làm những ngoan dân. Tống Thái-tông đang bận đánh Đại-Việt, Bắc-Hán. Trong triều có biến, giáng chức Tần-vương Đình-Mỹ. Bắc phải đối phó với Liêu cường thịnh, Tây-Hạ nhận sắc phong của Liêu. Vì vậy họ để cho phụ thân tôi được yên.
Mỹ-Linh lắc đầu:
– Hỏng! Cái thế ấy e lão bá nguy đến trong sớm tối. Hỏng! Hỏng to rồi!
Ngô Cẩm-Thi kinh ngạc:
– Công chúa đoán ra được ư?
– Cũng dễ thôi. Bá bá cùng hai vị Đào, Chu chủ chiến, mà phải qui ẩn. Khi Ngô-Việt mất nước, ít ra phân nửa sĩ dân trong nước phẫn hận việc Tống trở mặt. Tất họ hướng về ba vị bá bá. Dù muốn dù không, ba vị lại mưu dựng lại nghiệp cũ. Phất cờ giữa giai đoạn thịnh trị của Tống, chẳng khác gì tự tử.
Cẩm-Thi buồn rầu:
– Đúng thế. Niên hiệu Càn-hưng nguyên niên đời vua Chân-tông nhà Tống, nhằm niên hiệu Thuận-Thiên thứ mười ba bên Đại-Việt (1022), vua Chân-tông băng. Thái tử còn nhỏ tuổi, vua di chiếu cho Lưu hoàng hậu quyền xử trị việc nước. Ủy cho hoàng đệ Triệu Nguyên-Nghiễm cải danh Triệu Thành cầm binh quyền. Lưu hậu cùng Bình-Nam vương Triệu Thành có nhiều tham vọng, nên cho chiêu mộ võ lâm thiên hạ. Phái nào theo, được trọng dụng. Phái nào chống, bị diệt vong.
– Đối với phái Khúc-giang, Lưu hậu chiêu dụ hay Triệu Thành chiêu dụ?
– Lưu hậu! Phụ thân cùng hai vị Đào, Chu sư thúc quyết liệt từ chối. Người tổ chức anh hùng đại hội, bàn truyện khởi binh. Giữa đại hội anh hùng ở Hổ-môn, bị nội phản. Tống đem quân vây bắt hết. Song thân cùng ba anh tôi bị đem về Biện-kinh. Công chúa có biết tại sao, với tội phản như vậy, mà triều Tống lại không giết song thân tôi?
Mỹ-Linh chợt động tâm cơ:
– Khi hai vị bị nội phản, ắt kẻ nội phản phải thân tín lắm. Đã thân tín, dĩ nhiên chúng biết các ngài có trong tay bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ cùng bản đồ kho tàng. Chúng chẳng dại gì mà giết các người. Chúng để các người cung khai cho chúng hết bí mật, rồi mới giết.
Cẩm-Thi mặt nhợt nhạt:
– Công chúa biết hết rồi ư?
– Không, tôi đoán vậy thôi! Tôi đoán chắc các ngài không chịu khai. Vì khai ra, sẽ bị giết. Sau khi khai bị giết thì khai làm gì? Cứ để vậy, còn hy vọng sống. Hoặc giả bộ Lĩnh-Nam vũ kinh và Dụng-binh yếu chỉ đã mất rồi cũng nên.
Thiệu-Thái hỏi:
– Cô nương có biết kẻ nội phản là ai không? Chúng ta phải tìm chúng mà tru diệt, băm vằm ra từng mảnh cho hả dạ.
Cẩm-Thi mơ màng nhìn trăng:
– Kể bội phản thuộc hàng võ lâm cao thủ, tài trí vô song vào bậc nhất bậc nhì Hoa-Việt hiện nay. Nếu đủ bản lĩnh, phụ thân tôi đã tru diệt chúng rồi. Bản lĩnh người đâu có tầm thường, mà đành ôm hận bị quản chế ở Biện-kinh.
Chợt mắt nàng chiếu ra tia hàn quang sáng chói:
– Giáo chủ! Ừ nhỉ tại sao tôi không nhờ Giáo-chủ đứng ra chủ trì công đạo vụ này! Phải rồi, trong thiên hạ ngoài Lạc-long giáo, phái Đông-a, Tiêu-sơn, không ai có thể giải cái nghìn thu hận của gia phụ.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đưa mắt nhìn nhau như cùng nói với nhau:
– Võ công Cẩm-Thi đâu kém gì bọn trưởng lão Lạc-long giáo? Thế thì võ công Ngô Quảng-Thiên hẳn ghê gớm lắm. Cả hai chỉ bị ước thúc miệng, ngoài ra không hề bị canh coi gì cả. Tại sao hai người không âm thầm trốn về Đại-Việt. Tống triều có phái đại binh cũng không tìm ra được. Như vậy không chừng họ bị khống chế bằng Chu-sa ngũ độc chưởng cũng nên? Có thể kẻ nội phản thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc mới có thế lực đó.
Mỹ-Linh tự nhủ:
– Kẻ nội phản ắt là người Việt trong đám con em từ bên Đại-Việt qua. Nếu họ phản, tất dùng thuốc độc hại Ngô Quảng-Thiên. Chứ bản lĩnh của ông, khi bị vây, ông thừa sức trốn đi, âm thầm gây lại thế lực. Kẻ nội phản vì danh hay vì lợi? Nếu vì chút danh, thì sau đó hẳn được Tống triều phong chức tước lớn. Tại sao ta chưa từng nghe thấy có người Việt nào được Tống phong quan tước cả. Vậy ắt vì lợi. Mà lợi gì? Chắc chắn phải lớn lắm, mới khiến cho họ bán rẻ lương tâm như vậy.
Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
– Kẻ nội phản mưu cướp bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ cùng bản đồ kho tàng ư? Chúng đánh thuốc mê Ngô bá bá, rồi cướp đi chăng?
Ngô Cẩm-Thi giật bắn người dậy:
– Đúng thế. Vì bản đồ kho tàng. Chứ hai bộ sách kia họ cũng có.
Mỹ-Linh thở dài:
– Con người ta dù thế nào chăng nữa, cũng không xa được cái nguồn gốc mình. Vua quan Tống, hành sự gì cũng qui về Nho. Triều đình Việt qui về chủ đạo tộc Việt. Những người học Hồng-thiết kinh dù ở dâu, dù ở hoàn cảnh nào họ cũng hành sự theo Hồng-thiết kinh: Không tín, chẳng nghĩa, vô tình, xảo quyệt, bạc ác. Có phải kẻ nội phản thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc không?
Ngô Cẩm-Thi lắc đầu:
– Không! Họ là người Việt.
Thiệu-Thái kinh hoàng:
– Họ là ai Không lẽ là Lê Ba, Vũ Nhất-Trụ?
Ngô Cẩm-Thi lắc đầu:
– Giáo chủ nghĩ kỹ một tý sẽ tìm ra ngay.
Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
– Tôi tìm ra rồi! Họ là Tả, Hữu hộ pháp Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
Ngô Cẩm-Thi trả lời bằng cái gật đầu nhẹ nhàng.
Thiệu-Thái chợt nhớ ra: Sau khi lên làm giáo chủ, chàng được Lê Đức trình bày cho biết tổ chức Hồng-thiết giáo. Trên cao nhất có giáo chủ. Kế đến tả, hữu hộ pháp. Thấp hơn nữa có ngũ sứ và mười trưởng lão. Khi Nhật-Hồ lão nhân lập Hồng-thiết giáo Đại-Việt, kết hợp với bẩy võ lâm cao thủ trẻ tuổi. Lão tự làm giáo chủ. Phong cho hai người tài kiêm văn võ làm tả, hữu hộ pháp. Năm người còn lại làm ngũ sứ. Tả, Hữu hộ pháp thống lĩnh giáo chúng tộc Việt từ hồ Động-đình xuống đến Bắc-biên. Tức lãnh thổ Lĩnh-Nam cũ thuộc Quế-lâm, Nam-hải. Ngũ-sứ thống lĩnh giáo chúng Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la. Mỗi người coi như làm giáo chủ một địa phận.
Thiệu-Thái hỏi tên bẩy người, Lê Đức cho biết: Bẩy người đó tuy ngang tuổi với mười trưởng lão. Nhưng họ ở vai sư đệ Nhật-Hồ lão nhân, chứ không phải đệ tử lão. Họ được học Hồng-thiết tâm pháp, nên có thể giải độc Chu-sa vĩnh viễn. Nhật-Hồ lão nhân không cho đệ tử biết danh tính bẩy người này. Bẩy người hành sự rất kỳ bí. Lâu ngày gần như họ ly khai với Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Nhưng sau cùng Lê Đức cũng biết được. Tả, hữu hộ pháp tên Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn. Ngũ sứ là Nguyễn San, Bun-Thành, Khiếu Tam-Bản, Nguyễn Tuyết-Minh, Sử-vạn Na-vượng.
Ngô Cẩm-Thi mơ màng nhìn trăng:
– Họ chính là hai người thân tín nất của gia phụ, tức Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn.
– Ái chà!
– Nguyên Đào, Chu với gia phụ có mối liên hệ từ mấy đời, đem nhau từ Đại-Việt sang, cùng chung mưu thống nhất tộc Việt. Gia phụ chủ trương dùng chủ đạo tộc Việt, dựng lại nước như thời vua Trưng. Chu, Đào âm thầm theo Nhật-Hồ lão nhân, nhập Hồng-thiết giáo, rồi khuyến dụ gia phụ theo. Gia phụ cự tuyệt, vì như thế là đi vào đường tà ma, giết chủ đạo tộc Việt, thì còn mong gì tái lập Lĩnh-Nam nữa. Thế rồi hai vị Chu, Đào âm thầm hoạt động trong bóng tối. Cho tới lúc hội họp bàn khởi binh, thì hầu hết các hào kiệt trong buổi họp đều theo Hồng-thiết giáo. Họ muốn Hồng-thiết giáo đứng lên lãnh đạo cuộc khởi binh. Gia phụ chống đối. Thế là gây cuộc động thủ. Giữa lúc đôi bên đại chiến, thì thiết kị Tống xuất hiện. Đám Hồng-thiết hợp với binh Tống, nên phía hào kiệt lớp bị bắt, lớp bị giết. Song thân tôi bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng.
Ngô Cẩm-Thi nghiến răng:
– Thì ra Hồng-thiết giáo muốn độc quyền khởi binh. Họ không ngần ngại mượn tay Tống trừ khử hào kiệt Việt. Tống với Hồng-thiết ước hẹn nhau: Tống giúp Hồng-thiết giáo diệt hào kiệt. Ngược lại Hồng-thiết nhường cho Tống kho tàng. Vì vậy gia phụ, với tôi đều bị quản chế, mỗi năm họ phát cho một viên thuốc giải Chu-sa ngũ độc, cho đến khi gia phụ khai ra bản đồ kho tàng thì thôi.
Thiệu-Thái như người mơ ngủ mới tỉnh. Chàng hỏi:
– Sau khi diệt lão bá với hào kiệt. Tống quay ra diệt Hồng-thiết giáo của Chu, Đào. Vì vậy cho đến nay họ tuyệt tích giang hồ?
– Đúng thế! Hai lão đổi họ, cải tên đi. Đào Tường-Phúc đổi tên thành Tôn Đức-Khắc. Chu Bội-Sơn đổi tên thành Lê Lục-Vũ. Cả hai theo Lưu hậu, ẩn hiện không chừng.
Mỹ-Linh thấy Ngô Cẩm-Thi nói nàng bị trúng Chu-sa ngũ độc, rồi bị quản chế. Thế mà nay nàng biết Thiệu-Thái có thể trị độc cho nàng, mà nàng không cầu khẩn. Như vậy bên trong có ẩn dấu sự thực cũng nên. Vì vậy nàng dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Thiệu-Thái cứ lờ vụ giải Chu-sa độc đi. Nếu sự thực nàng bị trúng độc này ắt sẽ cầu khẩn.
Thiệu-Thái tội nghiệp cho Cẩm-Thi:
– Tỷ tỷ ở trong thung lũng này gần mười năm nay ư?
– Đúng thế. Hơn mười năm nay, tôi bị giam lỏng ở đây. Lưu hậu cho sứ giả nói rằng: Nếu tôi rời khỏi vùng Khúc-giang trong vòng ba ngày, lập tức song thân tôi ở Biện-kinh bị đem ra chặt đầu.
Mỹ-Linh thở dài:
– Lưu hậu gớm thực! Bà ta tra khảo hai vị tiền bối về kho tàng, về vũ kinh, về binh thư không được. Bà ta giả nhân, giả nghĩa tha cô nương sống trong thung lũng, rồi cho người theo dõi. Như vậy may mới tìm ra manh mối những thứ bà ta muốn.
Cẩm-Thi nhìn trước, nhìn sau:
– Không chừng chúng ta ngồi đây nói truyện với nhau, người của Lưu hậu rình rập nghe trộm cũng nên. Tôi chẳng biết gì về kho tàng, cũng không có vũ kinh, binh thư. Họ rình mò, cho họ rình mò.
Mỹ-Linh thấy đôi chim ưng vẫn bay lượn bình thường. Nàng nói:
– Bây giờ không có ai rình, nếu có lát nữa mới xẩy ra được.
Thiệu-Thái hỏi:
-_Tỷ tỷ chỉ ở trong thung lũng, mà sao biết hết truyện Đại-Việt, truyện ngư nhân ngoài trấn?
Cẩm-Thi ngồi ngay ngắn lại:
– Tôi bị giam lỏng thực. Tuy nhiên vẫn liên lạc với hào kiệt khắp vùng Quảng-Đông lộ, nên theo được tình hình Đại-Việt cũng như ngoài trấn. Đêm nay, thung lũng này sẽ có cuộc chém giết nhau đến máu thành sông mất.
Mỹ-Linh kinh ngạc:
– Phe nào với phe nào giết nhau vậy?
– Nhiều lắm. Lát nữa có đại hội bang Nhật-hồ trên đỉnh Tuyệt-phong. Bang Nhật-hồ theo Lưu hậu. Rồi Định-vương Triệu Nguyên-Nghiễm ẩn tế dưới tên Bình-Nam vương Triệu-Thành. Phía Đại-Việt có Lạc-long giáo, Khu-mật viện cùng các đại môn phái. Nguyên hôm nay là ngày mười ba tháng mười một. Chỉ còn hai hôm nữa, đúng nửa đêm, cửa kho tàng mở. Vì vậy ai cũng tranh dành chiếm núi. Nhưng chiếm chỉ để mà chiếm. Núi lớn thế này, biết cửa ở đâu mà tìm?
Chợt tiếng chim ưng ré trên không, rồi đâm bổ về phía bên kia suối. Mỹ-Linh nói sẽ:
– Có người tới đó. Ta tạm nấp vào bụi hoa.
Ba người nấp vào bụi hoa. Phía bên kia có ba người đang đuổi theo một người. Người chạy trước, rõ ràng là đàn bà. Mụ ta tới bờ suối, lội tràn sang. Ba người đuổi cũng lội suối theo.
Người chạy trước, vừa sang bên này suối, Thiệu-Thái nhận ra mụ chính Đỗ Lệ-Thanh. Còn ba người đuổi theo, hai người đi đầu gồm Nguyên-Hạnh, Cao Thạch-Phụng, một người là Chu An-Bình.
Thình lình Lệ-Thanh vấp vào hòn đá ngã chúi xuống. Ba người kia đuổi theo vừa kịp. Cao Thạch-Phụng dí kiếm vào cổ Đỗ Lệ-Thanh, miệng thị quát lên the thé:
– Chung qui ta cũng bắt được người. Không ngờ hôm nay người lại chết dưới kiếm ta ở đây. Thôi, đừng có tiếc thương nữa!
Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
– Con tiện nhân. Mi cứ giết ta đi. Ta há sợ chết sao?
Mụ dơ kiếm lên, định chém xuống. Chu An-Bình vung kiếm gạt:
– Túc-không Quan-âm! Không thể hạ sát người này được. Cần giữ y thị lại, vì y thị là người duy nhất còn thuộc Hồng thiết tâm pháp. Luyện Hồng-thiết tâm pháp, mới giải hoàn toàn Chu-sa ngũ độc chưởng. Cũng chính y thị giữ bí mật phép luyện thuốc giải tất cả độc tố trong Hồng-thiết kinh.
Nguyên-Hạnh cúi xuống nắm cổ áo Đỗ Lệ-Thanh nhắc mụ lên khỏi suối. Tới bờ, y liệng mụ xuống đất. Đỗ Lệ-Thanh trở mình một cái, mụ phóng vào người Cao Thạch-Phụng một chưởng. Mỹ-Linh nhận ra chiêu chưởng đó thuộc chưởng Cửu-chân, nhưng xử dụng bằng nội lực âm nhu của phái Mê-linh mà nàng dạy mụ.
Bình một cái, Cao Thạch-Phụng bay bổng ra xa, rơi xuống mỏm đá dưới sối. Nhanh như chớp, Đỗ Lệ-Thanh lạng người chĩa một chỉ vào ngực Nguyên-Hạnh. Nguyên-Hạnh không trở tay kịp, y bị trúng chỉ đến bộp một tiếng, người lảo đảo, ngã ngồi xuống đất.
Đỗ Lệ-Thanh không nhân nhượng, mụ vọt người lên cao. Ở trên cao mụ đánh xuống một chưởng, trúng giữa ngực Cao Thạch-Phụng. Bình một tiếng, người Thạch-Phụng bay vọt lên bờ suối. Mụ trở mình một cái, đáp xuống yên lành.
Mỹ-Linh kinh ngạc:
– Không hiểu sao, mụ trúng hai chưởng của Đỗ phu nhân, nặng như vậy, mà dường như vô sự?
Bỗng Thạch-Phụng ối một tiếng, người lảo đảo như say rượu. Rồi hai tiếng, ba tiếng ối liên tiếp. Người mụ đảo bên trái, nghiêng bên phải. Tiếp theo, mụ rú lên dài liên miên bất tuyệt, rung động cả rừng núi.
Đỗ Lệ-Thanh ngửa mặt lên trời cười lên một tràng dài ghê rợn.
– A, ha ha! Cái hận mười năm, nay ta mới trả được.
Mụ quay lại Nguyên-Hạnh:
– Hồ Dương-Bá! Mi tính sao đây?
Nguyên-Hạnh run lẩy bẩy:
– Sư muội! Sư muội tha cho sư huynh một phen. Từ nay, vợ chồng nối lại duyên xưa chẳng đẹp lắm ru?
– Đẹp với không đẹp! Mi giam ta hơn mười năm trong Hồng-hương mật cốc còn đẹp nào bằng nữa?
Mụ nghiến răng vung tay, vù vù hai tiếng như gió thoảng qua người Nguyên-Hạnh. Y rùng mình một cái, ngồi dậy:
– Đa tạ sư muội.
Tiếng muội vừa ra khỏi miệng, y lảo lảo, rồi hét lên be be như con dê bị chọc tiết.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái thấy tình trạng y giống hệt Đỗ Xích-Thập, khi bị Trần Tự-An đẩy độc tố trở về cơ thể, hôm đại hội Thăng-long. Y hú lên lanh lảnh, nhảy chồm chồm như con khỉ đột.
Đỗ Lệ-Thanh khoanh tay, ngồi trên tảng đá, mụ cười khoan khoái, nói với Chu An-Bình:
– Sư đệ! Sư đệ coi trò chơi này có náo nhiệt không?
Chu An-Bình hỏi:
– Hôm đại hội Thăng-long, đệ ẩn thân trong đám quần chúng, thấy Nhật-Hồ, Nhất-Trụ, Xích-Thập dùng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng đánh người, bị người đẩy chất độc trở lại, thành điên loạn. Nhưng… Hồ sư huynh đâu có đánh sư tỷ, mà bị sư tỷ đẩy độc tố trở lại cơ thể?
Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
– Không có gì lạ cả. Ta nhân học thuật của phái Đông-a, rồi biến chế đi. Phái Đông-a đẩy độc tố trở lại kẻ đánh mình, còn ta, ta phóng độc tố chạy ngược kinh mạch, kết qủa cũng như nhau. Cái đó gọi là di hoa, tiếp mộc.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe mụ nói, cùng nghĩ như nhau:
– Đỗ phu nhân thông tuệ khác thường. Từ võ công Đông-a, bà biến đổi thành thứ võ công mới, dễ luyện, dễ xử dụng hơn nhiều.
Nguyên-Hạnh, Thạch-Phụng hò hét, hú, nhảy nhót một lúc, cả hai đã mệt nhừ. Đỗ Lệ-Thanh quay lại định kết liễu tính mệnh hai kẻ thù, thì từ phía bên kia suối, có tiếng nói lớn:
– Mẹ! Mẹ tha cho bố một phen.
Tiếp theo hai nhà sư vọt mình sang đỡ Nguyên-Hạnh dậy. Mỹ-Linh nhận ra Hạnh-Chân, Hạnh-Như ở chùa Sơn-tĩnh.
Hạnh-Chân ôm Nguyên-Hạnh. Hạnh-Như ôm Thạch-Phụng, rồi chạy biến vào bóng đêm.
Đỗ Lệ-Thanh hỏi Chu An-Bình:
– Chu sư đệ! Người mặc quần áo đỏ, thì ra người được phong Nam-phương sứ giả trong Ngũ-sứ của bản bang. Người tính sao?
Chu An-Bình chậm rãi trả lời:
– Đại sư ca sai tiểu đệ muôn dặm sang Đại-Việt tìm sư tỷ. Tiểu đệ những tưởng sư tỷ lưu lạc đâu. Nào ngờ trong đại hội Lộc-hà, mới biết sư huynh chính thị Nguyên-Hạnh. Vợ Nguyên-Hạnh không phải sư tỷ, mà là còn đượi Thạch-Phụng. Trong đại hội, sư tỷ xuất hiện, đệ mới biết sư tỷ vẫn còn trên thế gian, hơn nữa làm người thân tín của công chúa Bình-Dương cùng giáo chủ Lạc-long giáo. Từ đấy, đệ theo dõi, mong tiếp xúc với sư tỷ. Hôm nay mới toại nguyện.
Đỗ Lệ-Thanh thở dài thườn thượt:
– Toại nguyện! Giá như ta bị Nguyên-Hạnh giết trên đài, hôm đại hội, hẳn người sung sướng Tạ ơn trời Phật, mụ sư tỷ chết đi cho rảnh mắt.
Chu An-Bình cười lớn:
– Sư tỷ khéo diểu tiểu đệ. Tiểu đệ lần mò được biết kế hoạch Bình-Nam vương vờ đi thuyền Đại-Việt, đợi khi đến Hổ-môn sẽ để Phạm Trọng-Yêm bắt sống, đem vào bờ, rồi tới đây tìm kho vàng. Tiểu đệ đoán chừng công chúa Bình-Dương cũng khám ra mưu ấy, chắc sẽ đến Khúc-giang. Công chúa Bình-Dương đến Khúc-giang, ắt sư tỷ cũng đến theo. Vì vậy đệ đến đây rình sẵn. May đâu gặp sư tỷ. Sư tỷ nghĩ coi, vừa rồi nếu đệ không phóng phấn độc vào người Cao Thạch-Phụng với Nguyên-Hạnh, liệu sư tỷ có thắng chúng dễ dàng vậy chăng?
– Đúng thế. Đặng đại ca nghĩ rằng phải chi mình biết Hồng-thiết tâm pháp, giải trừ độc chất vĩnh viễn cho bà, khiến bà nhập bản bang. Bà dùng Chu-sa độc chưởng khống chế hết quần thần. Quần thần, phần sợ uy quyền, phần sợ Chu-sa độc chưởng, hỏi ai dám chống bà. Ta đứng trong bóng tối giúp bà nắm quyền bính. Bà sẽ trao hết quan chức cho anh em bản bang. Như thế trên thực tế là Tống triều, mà hoá ra bản bang cai trị Thiên-hạ.
– Vì thế Đặng đại ca phái người đi tìm ta phải không? Trong tay người có chiếu chỉ của Lưu hậu. Khi người tìm thấy ta, dùng võ công khống chế. Nếu thắng ta, người bắt trao Hồng-thiết tâm pháp. Còn bại, người đưa chiếu chỉ cho vua Lý, nói ta là khâm phạm của Thiên-triều. Họ Lý phải bắt ta trao cho người mang về Trung-nguyên.
Chu An-Bình nghe Đỗ Lệ-Thanh nói toẹt ra âm mưu của y. Mặt y tái đi như gà cắt tiết:
– Sư tỷ nói quá, làm gì có truyện đó.
Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt. Mụ thuật lại tất cả những điều chú cháu An-Bình nói với nhau hôm ở trong rừng Trường-yên, cùng hành động của y khi giúp Đại-lý … ra một lượt. Rồi mụ cười the thé:
– Đặng Đại-Bằng bất quá là đệ tử của phụ thân ta. Đáng lẽ khi y quy tụ giáo chúng, phải cứu mẫu thân ta cùng anh em họ hàng ta ra khỏi Biện-kinh. Đây y để nguyên, không lý gì tới. Rồi bây giờ cần đến Hồng-thiết tâm pháp, y cho người đi tìm ta, bắt phải khai. Hừ! Đỗ Lệ-Thanh này đâu có dễ dàng để cho người khống chế? Người thử mở bọc, đưa mật chiếu của Lưu hậu ra mà coi. Người sẽ thấy một kỳ quan.
Chu An-Bình nghe Đỗ Lệ-Thanh nói, chân tay y bủn rủn ra. Y định nhận tội, rồi cười trừ cho qua. Nhưng dù sao, y cũng là đệ tử Hồng-thiết giáo, xảo quyệt, ăn cháo đái bát, lưu manh vô tận.
Y nghĩ thầm:
– Ta cứ chối biệt vụ chiếu chỉ của Lưu hậu cho xong.
Nghĩ vậy y cười khành khạch:
– Sư tỷ lầm rồi. Hôm ấy, vì thấy có người của Hồng-hương thiếu niên phục gần đó, nên đệ bịa ra truyện chiếu chỉ của Lưu hậu để dọa chúng, chứ làm gì có truyện đó.
Đỗ Lệ-Thanh nổi giận:
– Mi còn chối ư? Trong khi mi đi trên thuyền với bọn Đại-lý. Khu-mật viện Đại-Việt cho người lên thuyền chúng trộm hết thư tín, giấy tờ, tài liệu. Trong đó có cả phép chế Chu-sa phấn độc, mà bản bang mới tìm ra, thay thế Chu-sa độc chưởng.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nghe Chu An-Bình, Đỗ Lệ-Thanh đối đáp, hai người tỉnh ngộ:
– Hôm gặp Đỗ phu nhân, mình thấy bà chỉ biết xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng. Sau tự nhiên thấy bà biết phóng độc phấn như bọn Chu An-Bình, mình không thắc mắc gì. Thì ra hôm đệ tử Thiên-trường trộm được tài liệu, thư tín trong thuyền Đại-lý, Thanh-Mai thấy có tập chép kỷ yếu về bang Nhật-hồ Trung-nguyên, trao cho Đỗ phu nhân. Đỗ phu nhân theo đó chế ra phấn độc.
Mụ móc trong bọc ống trúc nhỏ, rồi mở nắp, kéo một tờ giấy, miệng cười khành khạch:
– Cái này là cái gì đây.
Chu An-Bình nhận ra tờ chiếu của Lưu hậu, y đánh trống lảng:
– Chúng ta đều học Hồng-thiết kinh. Hồng-thiết kinh dạy rằng: Lật lừa, xảo trá, nói rồi chối, giết cha mẹ, hại thầy bạn… thuộc bản chất của giáo chúng mà! Sư tỷ quên sao? Sư tỷ ơi! Sư tỷ hãy vì bản bang, trao Hồng-thiết tâm pháp cho tiểu đệ, đem về trình đại ca, hầu làm rạng danh bản bang.
Đỗ Lệ-Thanh lắc đầu:
– Ta bị giam hơn mười năm, nhục nhã có thừa. Sau nhờ Thân thế tử cùng công chúa Bình-Dương cứu ta ra. Hai vị lại dùng lễ đối đãi với ta bằng tất cả tấm lòng thương mến, kính yêu. Ta… ta đã quyết tâm theo người đến chết. Sư đệ! Người về nói với Đặng đại ca rằng Đỗ Lệ-Thanh chết rồi. Nay được tái sinh, làm con dân họ Thân, họ Lý. Ta nguyện không làm lợi cho bản bang, cũng không làm hại bản bang. Thôi, người đi đi.
Lời nói của Đỗ Lệ-Thanh làm Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng cảm động:
– Đỗ phu nhân thực là người trung hậu, không phụ lòng chúng ta trọng đãi bấy lâu.
Bỗng có tiếng cười ha hả, rồi bốn phía xuất hiện bốn người, quần áo vàng, trắng, đen, xanh, vây Đỗ Lệ-Thanh vào giữa. Đỗ Lệ-Thanh hơi chột dạ, song mụ vẫn cương quyết:
– Hay lắm, Chu sư đệ, thì ra người là một trong ngũ vị sứ giả bản bang. Từ hôm mới gặp người, ta thấy người luôn mặc quần áo mầu đỏ, ta tưởng chẳng qua sự thường. Nào ngờ người lên tới chức Nam-phương sứ giả. Hay lắm, Ngũ-sứ cứ tấn công đi. Ta há sợ sao?
Người mặc quần áo vàng cười nhạt:
– Đỗ sư muội, bất cứ người nào chống lại lệnh bang chủ đều bị xử tử hình. Từ nãy đến giờ, Chu sư đệ truyền lệnh của bang chủ, sư muội không những không tuân, còn nói lời mạt sát vô lễ. Song nghĩ tình sư muội là con gái bang chủ tiền nhiệm, chúng ta có chỗ châm trước. Sư muội mau đem Hồng-thiết tâm pháp trao cho chúng ta.
Đỗ Lệ-Thanh vẫn bướng:
– Ngũ sứ muốn, cứ xuất chiêu. Các người có giỏi, hãy giết ra đi. Ta chết rồi, vĩnh viễn không bao giờ các người tìm ra Hồng-thiết tâm pháp nữa.
Trung-ương sứ giả tức người mặc quần áo vàng cười nhạt:
– Điều đó đâu có khó gì? Nam-phương sứ giả Chu hiền đệ hãy lĩnh giáo võ công của Đỗ sư muội đi!
Suốt thời gian qua, Thiệu-Thái sống cạnh Đỗ Lệ-Thanh. Trên xưng hô, một bên là chủ, một bên là tớ. Trên thực tế, chàng đối xử với bà như một người cô, người dì. Bà chăm sóc chàng từng ly từng tý. Bà lại cố vấn cho chàng với Mỹ-Linh. Bây giờ thấy bà bị năm người uy hiếp, chàng định nhảy ra đánh đuổi chúng đi. Nhưng Mỹ-Linh ra hiệu bảo chàng cứ chờ xem sao đã.
Chu An-Bình phóng chưởng tấn công Đỗ Lệ-Thanh. Chưởng của y cực kỳ hùng hậu. Mỹ-Linh kinh ngạc không ít, vì nàng đã thấy y đấu với hai nhà sư Trí-Nhật, Trí-Nguyệt, bản lĩnh của y tuy cao, nhưng không thể đạt tới trình độ này.
Đỗ Lệ-Thanh lùi một bước, phóng ra chiêu Kình-ngư quá hải, trong Cửu-chân chưởng pháp. Mỹ-Linh thấy chưởng lực của bà tinh diệu, nàng khen thầm:
– Đỗ phu nhân quả là thiên tài. Hôm nọ, mình thấy Tôn Đản dạy bà pho Thiết-kình phi chưởng, mình không chú ý lắm. Bây giờ nhìn bà xuất thủ thực không thua bất cứ đệ tử nào của bản môn.
Chu An-Bình không biết tính chất khắc chế của chưởng Cửu-chân. Y tiến lên một bước, tăng sức mạnh cho chiêu thức của mình. Bình một tiếng. Đỗ Lệ-Thanh lui liền ba bước. Trong khi Chu An-Bình đứng nguyên. Trên nét mặt của y hiện ra vẻ kinh hãi. Trong khi Đỗ Lệ-Thanh phát chiêu ra tay trái, chuyển sang chiêu Đông-hải lưu phong của phái Đông-a do Tự-Mai dạy bà.
Chu An-Bình thấy chiêu đầu của Đỗ Lệ-Thanh hung dữ, khắc chế với chiêu số, cùng nội công của y. Y chưa hết kinh hoàng, thì chiêu thứ nhì đã ập tới. Y tưởng đâu chiêu này cũng như chiêu trước. Y vội xuất Chu-sa độc chưởng phản công. Chưởng của y phát ra có mùi hôi tanh khủng khiếp. Hai chưởng chạm nhau bình một tiếng. Đỗ Lệ-Thanh vẫn lùi hai bước để bảo vệ thế tấn. Trong khi Chu An-Bình kinh hãi tự hỏi:
– Chiêu vừa rồi là chiêu gì, mà kình lực như có như không. Độc công của mình cao hơn mụ nhiều, mà dường như mụ không hề hấn gì. Trong khi tay mình cảm thấy nặng chĩu. Kỳ thực?
Trong khi y tần ngần, Lệ-Thanh tấn công tiếp bằng hai chiêu Cửu-chân, khiến Chu An-Bình phải lùi liền hai bước, tránh né, rồi y trả lại bằng hai chiêu Chu-sa độc chưởng cực kỳ hùng hậu. Đỗ Lệ-Thanh xuất hai chiêu Phong hồi hải để rồi chuyển sang chiêu Cuồng phong lộ lãng cũng của phái Đông-a. Sau khi hai chưởng giao nhau, tay Chu An-Bình càng thêm nặng chĩu.
Mỹ-Linh nói thầm vào tai Thiệu-Thái:
– Chỉ một chiêu nữa, tên An-Bình ắt lạc bại.
– Tại sao?
– Đỗ phu nhân áp dụng phương pháp của sư bá Trần Tự-An, đẩy chất độc về người y.
Đến đây Chu An-Bình đánh ra một chưởng với tất cả bình sinh công lực. Trái với những chiêu trước, Đỗ Lệ-Thanh lùi lại. Lần này bà tiến lên ba bước, đẩy cả hai chưởng về trước, đó là chiêu Đông ba hợp bích của phái Đông-a. Vù một tiếng, bốn chưởng chạm nhau. Đỗ Lệ-Thanh bắn vọt lên không. Ở trên không, bà lộn liền ba vòng, rồi đáp xuống an nhàn. Trong Khi An-Bình lảo đảo lùi lại.
Trưng-ương sứ giả hỏi An-Bình:
– Ngũ đệ! Cái gì vậy?
An-Bình im lặng không trả lời. Vì sau chiêu vừa rồi, y thấy trong ngực như nghẹn thở. Y cố nín hơi. Song chỉ được một vài khắc, y oẹ một tiếng, miệng phun máu xối xả. Biết sự bất ổn, y ngồi xuống xếp chân, nghiến răng vận công.
Tây-phương sứ giả, tức gã áo trắng, tiến đến bắt mạch cho An-Bình. Mặt y tỏ ra nét kinh sợ. Y hất hàm hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
– Đỗ sư muội! Người sang Giao-chỉ, học võ công tà môn hại huynh đệ trong bang ư?
Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
– Khi rời Trung-nguyên, ta mới chỉ là cô gái hai mươi tuổi. Võ công, nội lực đều tầm thường. Vì thế trong khi ở Đại-Việt ta phải học thêm võ công Lĩnh-Nam. Vừa rồi An-Bình dùng võ công thượng thừa trấn bang tấn công ta. Nếu ta dùng võ công bản bang chống lại, có khác gì trứng chọi với đá? Buộc lòng ta phải dùng võ công Lĩnh-Nam tự vệ.
Thình lình An-Bình ối lên một tiếng, rồi y run run như người bị lạnh. Trung-ương sứ giả chạy lại hỏi:
– Ngũ đệ! Sao vậy?
– Bị trúng Chu-sa độc chưởng.
Trưng-ương sứ giả nhăn mặt, tự nghĩ:
– Bản lĩnh độc công Đỗ Lệ-Thanh không làm bao, sao y thị có thể truyền vào người An-Bình?
Y hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
– Đỗ muội! Người dùng độc chưởng đánh sứ giả của bang chủ, người có biết hậu quả sẽ như thế nào không?
Đỗ Lệ-Thanh cười nhạt:
– Trung-ương sứ giả của bản bang mà sao hồ đồ lắm vậy? Võ công Lĩnh-Nam, hầu hết đều đường đường chính chính. Họ làm gì biết độc chưởng mà dạy muội? Vừa rồi ngũ đệ dùng độc chưởng hại ta. Ta chống trả, rồi đẩy những gì ngũ đệ đánh ta vào người y mà thôi.
Gã áo vàng bảo gã áo trắng:
– Nhị đệ! Người lĩnh giáo mấy chiêu của Đỗ sư muội đi.
Đỗ Lệ-Thanh nói mát:
– Từ khi bản bang thành lập đến giờ, Ngũ-sứ được luyện độc công tới trình độ cao nhất, sờ vào tay bất cứ ai, người đó cũng mất mạng. Khi thừa lệnh bang chủ đi thanh trừng phản đồ, chỉ một chiêu, phản đồ mất mạng. Thế mà sao bây giờ Ngũ-sứ lại đau đớn thế kia? Phải chăng giáo chủ không còn xứng đáng nữa?
Gã áo trắng không nói không rằng, y phát chưởng tấn công. Mỹ-Linh nhận ra chưởng của y là Võ-đang chưởng. Nàng nhủ thầm:
– Trong các môn phái Trung-nguyên, võ công Võ-đang thiên về âm nhu, lấy Dịch-kinh làm căn bản, biến hoá khôn lường. Không biết Đỗ phu nhân có chống lại được không?
Đỗ Lệ-Thanh thấy chưởng của y chưa tới, mà bà muốn ngộp thở. Bà phát chiêu Phục-ngưu thần chưởng, mà Bảo-Hoà dạy bà. Bình một tiếng, người bà bay vọt về sau đến hơn trượng. Toàn thân bà như tê dại.
Tây-phương sứ giả như không muốn ra tay vội. Y đứng chờ cho Đỗ Lệ-Thanh phục hồi công lực rồi mới đánh tiếp.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhìn nhau, như cùng muốn nói:
– Công lực tên này không thua Đại-Việt ngũ long làm bao.
Đỗ Lệ-Thanh từ từ đứng dậy. Mụ biết muôn ngàn lần mình không phải đối thủ của đệ nhị sứ giả bản bang. Mụ cười nhạt:
– Tây phương sứ giả xuất thân nhân vật thứ nhì sau chưởng môn Võ-đang có khác, công lực quả tuyệt vời. Nhưng, ta nhất định không khai bí quyết luyện Hồng-thiết mật công. Thử xem người có giết được ta không?
Tây-phương sứ giả cười nhạt:
– Sư muội! Sư muội không khai, ta cũng chẳng ép. Ta mời sư muội theo chúng ta đến ra mắt Đặng bang chủ một lần.
– Ta không đi.
Tây-phương sứ giả tung ra một cái gói. Gói là tấm lụa. Lạ thay tấm lục cuộn tròn Đỗ Lệ-Thanh lại. Y lại ném ra sợi dây trong tay . Sợi dây cuốn tròn Đỗ Lệ-Thanh. Y giật tay một cái, Đỗ Lệ-Thanh bay bổng lên cao. Y cười:
– Ta bọc sư muội bằng vải nhung thế này chắc không ai phản đối.
Thình lình có tiếng nói ngay bên cạnh:
– Ta phản đối!
Rồi một người cầm cái cần câu vung lên veo véo. Sợi dây cuốn Đỗ Lệ-Thanh đứt rời ra. Mụ rơi từ tay Tây-phương sứ giả xuống đất. Trong khi đó cần câu rung liên tiếp, cái phao đập vun vút vào người Tây-phương sứ giả, khiến y phải nhảy lùi lại.
Bốn người đồng xuất hiện đứng xung quanh Đỗ Lệ-Thanh. Họ chính là bốn ngư nhân.
Trung-ương sứ giả nạt lớn:
– Bốn tên ôn vật kia! Suốt mấy hôm nay, bọn mi phá chúng ta không biết bao nhiêu mà kể. Hôm nay ta cho bọn mi về chầu ông bà ông vải.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cho đến Ngũ-sứ, Ngô Cẩm-Thi đều giật mình kinh hãi, vì bản lĩnh họ đâu có tầm thường, mà bốn ngư nhân đến hồi nào, họ không khám phá ra. Mỹ-Linh nhìn lên trời: Đôi chim ưng vẫn bay lững lờ, mà sao bốn ngư nhân xuất hiện, chúng không báo cho nàng biết?
Đỗ Lệ-Thanh đứng dậy, mụ đã phục hồi công lực.
Ngư nhân mũ đỏ cười khành khạch:
– Năm vị là Ngũ-sứ của bang Nhật-hồ Trung-quốc, mà sao hồ đồ quá vậy? Anh em tại hạ dù gan to bằng trời cũng không dám vuốt râu hùm. Chẳng hay anh em tại hạ đã làm gì để Ngũ-sứ phải nổi giận?
Bắc-phương sứ giả chỉ mặt ngư nhân mũ trắng:
– Cách đây ba ngày, ta đang ngồi ăn uống ở tửu lầu Thái-bình, thì tên khốn kiếp kia vờ đến hỏi thăm đường, rồi thừa cơ bỏ mấy miếng cứt trâu vào bát canh nấu nấm hương. Sau đó y bỏ đi. Ta… ta vô tình gắp lên ăn, hôi thối chịu không được.
Ngư nhân mũ trắng cười khúc khích:
– Bản lĩnh Bắc-phương sứ giả cao thâm biết chừng nào, mà tôi bỏ phân trâu vào bát canh lại không biết, thực một kỳ tích thiên hạ. Tôi nghĩ, có lẽ người thích ăn phân trâu để luyện độc công e đúng hơn.
Cả bốn ngư nhân đều cười ồ lên. Bắc-phương sứ giả chỉ vào ngư nhân mũ xanh:
– Ta biết bọn oắt con nhà mi ắt có người lớn đứng sau nên chưa muốn ra tay. Tiếp theo Đông-phương sứ giả, tứ đệ của ta trong khi cỡi ngựa vào trấn, chính mi vờ chen lấn, rồi vuốt tay vào mông ngựa, sau đó bỏ đi. Con ngựa của tứ đệ thình lình phi nước đại. Tứ đệ giật cương thế nào cũng không được. Con ngựa phi như điên như khùng, cuối cùng kiệt lực, nó ngã lăn ra. Tứ đệ xem lại, thì ra mi đã đâm vào mông nó một cái kim. Đầu kim tẩm thuốc độc, khiến con ngựa ngứa quá, chịu không nổi nên phi nước đại.
Bốn ngư nhân cười ồ lên. Ngư nhân mũ xanh thè lưỡi ra nhát:
– Sứ giả nói lạ. Luật vua Hùng, vua Trưng định rằng, buộc tội phải có chứng. Bản lĩnh Đông-phương sứ giả biết dường nào, mà tôi châm kim vào đít ngựa, đến nỗi không biết. Hỏi ai tin được nhỉ?
Trung-ương sứ giả mặt hầm hầm chỉ ngư nhân mũ đen:
– Tên khốn kiếp kia! Cách đây bốn ngày, ta đang ngồi ăn ở tửu lầu Đông-phong, mi mang đến tấm biển, cùng một chậu cúc cực lớn. Trên tấm biển có nhiều chữ kỳ dị, thách đố ai đọc được, mi sẽ biếu chậu cúc. Ta vô tình vì tính hiếu kỳ, đứng dậy quan sát cho kỹ. Không ngờ lúc ngồi xuống, thì trên ghế, ai đã để một miếng gỗ, với ba cái kim chổng ngược. Ta ngồi xuống, bị kim đâm đau thấu tâm can. Ta đoán chắc mi với tên để kim cùng bàn kế hại ta.
Ngư nhân mũ đen cười khành khách:
– Trời đất ôi! Oan ôi là oan. Tôi có ba đầu sáu tay đâu mà đi trêu vị chánh sứ của bang Nhật-hồ. Tôi quả có mang bảng, mang cúc đi thách thiên hạ thực. Còn ai bỏ kim vào ghế hại chánh sứ tôi nào biết.
Tây-phương sứ giả bảo bốn ngư nhân:
– Bọn mi muốn sống, đừng can thiệp vào truyện bản bang. Bằng không ta bất chấp dư luận lớn hiếp nhỏ, mà giết chúng bay ngay tại đây.
Ngư nhân mũ đỏ cười lớn:
– Tôi cũng muốn xa lánh truyện của quý bang, ngặt vì chúng tôi là con dân Đại-Việt, quyết không để cho ai giết người vô cớ trên đất Việt.
Bắc-phương sứ giả quát lên:
– Đây thuộc Quảng-Đông lộ, lãnh thổ Đại-Tống. Bọn man mọi Việt mi không có quyền gì cả.
Ngư nhân mũ đỏ lắc đầu:
– Ông sứ giả dốt bỏ mẹ đi ý. Vùng này trước thuộc Văn-lang, sau thuộc Âu-lạc, rồi Lĩnh-Nam. Thuận-Thiên hoàng đế kế tục tổ tiên, cai trị thiên hạ, thì đất này thuộc Đại-Việt.
Trung-ương sứ giả đưa mắt cho Đông-phương sứ giả:
– Sư đệ cứ ra tay đi.
Gã áo xanh vung tay phát chưởng. Chưởng của y hùng hậu hơn Chu An-Bình nhiều. Ngư nhân mũ đỏ lạng người đi tránh. Không biết bằng cách nào, y xê dịch người ra sau địch thủ, rồi chĩa tay điểm đến véo một chỉ vào cổ Đông-phương sứ giả. Lạ thay, Đông-phương sứ giả trúng một chỉ nhẹ nhàng, mà người lảo đảo ngã xuống. Ngư nhân mũ đỏ vác Đông-phương sứ giả lao mình chạy. Bốn ngư nhân còn lại đồng tung lên một nắm bột trắng bay mịt mờ.
Ba sứ giả Trung-ương, Tây-phương, Bắc-phương sợ phấn độc, vội vung chưởng gạt, cùng nhảy lên cao tránh đám bụi. Khi bọn y ra khỏi vòng bụi, bốn ngư nhân đã biến vào đêm tối.
Trung-ương sứ giả hô lớn:
– Nhị đệ ở đây canh giữ ngũ đệ, cùng Đỗ muội. Tam đệ cùng ta mau đuổi theo chúng.
Hai người vọt mình theo bốn ngư nhân.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!