Bên Cạnh Thiên Đường
Chương 15
Ông già mặt đầy râu ria, có vẻ rất thân với Trát Ba, lấyra một mảnh vỡ từ tấm bia đá cổ, bên trên có khắc văn tự cổ. Một tấm bia đá hếtsức không bình thường. Nơi chôn vùi nó chắc hẳn lại càng không bình thường hơn.Tôi lập tức móc tiền ra mua. Ông lão nói phát hiện được nó ở một nơi trong sa mạcTaklimakan cách chỗ chúng tôi đang đứng mấy chục cây số, nơi đó có một quần thểmộ cổ bị cát chảy chôn vùi. Nơi này là do đám trẻ tình cờ phát hiện ra trongkhi đi chơi.
Chúng tôi bị ý nghĩ thám hiểm làm cho máu nóng trong ngườisôi lên sùng sục, hỏi kỹ ông lão địa lập tức lái xe lên đường.
Đến rìa sa mạc. Sa mạc vừa đáng yêu vừa đáng sợ. Những đụncát dập dềnh như sóng trải dài vô tận ra trước mắt, tựa như đang nói: hoannghênh các người đến với vòng tay của tử thần. Tôi nhìn Trát Ba, Trát Ba cũngnhìn tôi, cả hai cùng cười cười. Hai người lấy balô, đổ đầy nước vào các chai,cầm la bàn, đeo kính chống cát, rồi tiến vào sa mạc theo hướng ông già đã chỉ.
Khoảng tám chín cây số đầu tiên, chúng tôi còn nói nói cườicười được. Mặt cát tương đối cứng, dẫm lên rất dễ chịu. Quay đầu nhìn lại, thôntrấn nhỏ vẫn lười nhác nằm phơi mình dưới ánh mặt trời oi ả. Sau khi trèo qua mộttriền dốc, thôn trấn nhỏ đã biến mất, bồn bề chỉ còn là đồi cát mênh mông. Lạiđi thêm năm sáu cây số nữa, chúng tôi bắt đầu thấm mệt. Cát dưới chân càng lúccàng mềm, thường sụt cả chân xuống. Mặt trời mỗi lúc một nóng, chúng tôi bắt đầuthở dốc và không ngừng uống nước. Nhìn xung quanh, tất cả đều chỉ là sa mạcmênh mông vô tận.
Trát Ba lấy ống nhòm ra, vừa nhìn xung quanh vừa lẩm nhẩmlại lời của ông lão: “Một dòng sông khô cạn, một bụi cỏ lạc đà, một bức tường đổ,kia rồi!” Tôi duỗi tay chân nằm phịch xuống mặt cát, một lát sau thì phải bò dậy,cát nóng như nước sôi, muốn tìm một chỗ mát mẻ để ngồi cũng không được, toàn bộsa mạc đều là lãnh địa của mặt trời. Tôi bắt đầu dao động. Trát Ba nói có thểlòng sông đã bị cát chảy lấp mất, tiếp tục tìm kiếm chắc sẽ có phát hiện. Đànhlết thân đứng dậy đi tiếp với cậu ta. Hai người lại đi thêm ba bốn cây số nữa.Mỗi một bước, cát chảy đều ngập tới mắt cá chân, toàn thân mồ hôi ướt đẫm. Ýchí của tôi bắt đầu dao động, không ngừng do dự. Trát Ba quay đầu lại, ánh mắtđầy vẻ khích lệ. Không muốn mất mặt, đành tiếp tục lê lết về phía trước.
Đột nhiên một chân thụt vào hố cát, sâu tới cả mét, ngườitôi ngã vật ra. Trát Ba vội vàng kéo lấy tôi. Cả hai đều hú hồn, cứ tưởng rơivào hố cát trôi như trong phim “Khả Khả Tây Lý”. Lúc được kéo ra ngoài, mồ hôilạnh ướt đẫm khắp người tôi. Trát Ba khom người kiểm tra, đào thử mấy cái, cátrất xốp, đào thêm mấy nhát nữa thì lòng sông cạn bắt đầu lộ ra. Thì ra nơi tôibị thụt xuống chính là dòng sông khô cạn mà ông lão đã nhắc tới. Cậu ta lấy ốmnhòm ra, điều chỉnh tiêu cự, cuối cùng cũng phát hiện ra nơi cần đến. Chúng tôiđều rất hưng phấn, sải chân bước đi. Một ốc đảo đã hoàn toàn bị sa mạc hóa.Cách đó không xa chính là bức tường đổ ông lão đã nói. Tôi và Trát Ba mang theotâm trạng thành kính tiến về phía đó. Vừa tới chân tường, tôi đã ngồi phịch xuống,không muốn đứng dậy nữa. Trát Ba thì vẫn tiếp tục đi vòng quanh quan sát.
Một tòa thành bằng đất.
Niên đại kiến trúc lâu đời, các bức tường chính đã bị giócát xói mòn gần hết. Trong quá khứ, nơi này có lẽ là một đầu mối giao thôngquan trọng, nhưng rồi bị sa mạc xâm lấn nên bị bức bách phải bỏ hoang. Về cơ bản,thành đất đã sụp đổ chỉ còn lại một chút tàn tích. Ở giữa thành đã bị đào bới.Nhưng người đào bới chỉ đào đến nền đất là hết kiên nhẫn bỏ cuộc, tòa thành tựanhư đang một người đang muốn mở miệng dãi bày tâm sự với mọi người, nhưng chỉ mởra rồi lại thôi. Trát Ba lấy một cái túi to, nhặt một ít đất, gỗ, những miếngbùn có màu dầu, ngói bỏ vào đấy rồi mới quay lại chỗ tôi ngồi xuống, thở phào mộthơi, nét mặt rất hạnh phúc, vừa mỉm cười vừa hút thuốc.
Tôi hỏi cậu ta có cần đào tiếp không? Trát Ba lắc đầu, thấyvẻ ngạc nhiên trên mặt tôi, cậu ta liền giải thích: “Phương pháp bảo quản tốtnhất chính là phong kín”. Trát Ba định trở về nói cho mấy người bạn làm khảo cổ,để họ tổ chức thám sát khai quật, dù sao người ta cũng là dân chuyên nghiệp.Tôi trêu trọc, nói biết đâu ở đây cũng có kho báu như kho báu ở thành Troy cũngkhông chừng? Trát Ba bảo có hay không cũng không quan trọng, tiền bạc không phảigiấc mơ lớn nhất của cậu ta, giấc mơ lớn nhất chính là tìm được thành cổ LâuLan thứ hai, để toàn thế giới phải nhìn vùng đất khô cằn nghèo khổ này bằng conmắt khác.
Hoàng hôn đỏ rực như máu. Sa mạc chìm trong yên tĩnh. Dướiráng chiều rực rỡ, những gì còn sót lại của tòa tành toát lên một vẻ thần bí lạkỳ, khiến máu nóng trong người cuồn cuộn trào dâng. Lịch sử có một sức mạnh thầnkỳ: dù thiên tai địch họa thế nào cũng không thể vùi lấp được hoàn toàn lịch sử.Chúng tôi ngồi đến tận lúc mặt trời khuất núi, rồi mới lưu luyến trở về.
Đêm đó chúng tôi ngủ ở nhà ông lão người Duy.
Nửa đêm tôi đột nhiên sốt cao. Trát Ba lấy thuốc giảm sốtcho uống, ông lão cũng nấu cho một bài thuốc ở địa phương, nhiệt độ cũng tạm trởlại bình thường, Trát Ba ngồi cạnh tôi cả đêm, không ngủ lấy một phút. Ngày hômsau tôi đã bớt sốt, nhưng vẫn còn hâm hấp, mồ hôi đầm đìa khắp người, thi thoảngcòn nôn ọe. Trát Ba đành tìm một chiếc xe đi về Urumuqi, đưa tôi lên rồi nhờtài xế chăm sóc cẩn thận.
– Sao không về cùng tôi luôn?
Tôi hỏi.
– Còn chuyện rất quan trọng chưa làm, làm xong mới về được.
Cậu ta khẽ đáp, cúi đầu trầm mặc né tránh ánh mắt củatôi.
Chiếc xe lắc lư khởi động.
TrátBa hát vang bài “Hey! Jude” vừa hát vừa lắc lắc người một cách khoa trương, đưacả hai tay lên vẫy vẫy chào tôi.
Tôicũng vẫy tay chào, trong lòng cảm thấy rất khó chịu.
VềUrumuqi được hai ngày thì tôi khỏi sốt.
Gọiđiện cho Kha Lan hỏi thăm Trát Ba, nghe nói tất cả đều ổn, tôi mới yên tâm.
Ngườivẫn còn hơi yếu, tôi ngồi trong vườn tắm nắng để trục bớt hàn khí trong ngườira. Tôi cứ nằm dài trên ghế đọc sách, đọc chán thì ngồi nghe nhạc. Người ở côngty du lịch gọi điện tới, hỏi số người đã đủ chưa? Tôi bèn ra bảng thông báo xemthử, thấy ngoại trừ “thằng điên” ra còn có thêm hai chữ “ngu xuẩn” đành trả lời:“Thêm cả tôi nữa là có ba người.” Đối phương nói, nếu tuần sau vẫn chưa đủ nhânsố thì đành hủy bỏ kế hoạch. Tôi bị buộc phải đồng ý.
Ănxong cơm trưa, tôi lại ra vườn ngồi nghe bản Con cer tos Bran den burg củaBach. Nghe được một nửa, thì đột nhiên có một chiếc giày bay tới, suýt chút nữathì trúng người tôi. Một lúc sau thì chủ khách sạn đến, hỏi tôi có thể cho nhỏtiếng lại được không? Những khách trọ khác đều rất có ý kiến với thứ âm nhạc cổquái tôi đang nghe. Tôi đành tắt máy, tắm nắng thêm một lúc, không cẩn thận ngủthiếp đi. Thân thể yếu ớt, rất dễ ngủ gật. Lúc tỉnh dậy thì mặt trời đã sắp lặn.Bụng sôi sùng sục, đành chạy xuống quán nhỏ gần đó ăn đầy một bụng thịt dê.
Ănxong, tôi đi bộ dọc theo phố cho tiêu hóa hết đống thịt dê béo ngậy trong dạdày.
Đimột mạch tới quán bar nhỏ lần trước đã kéo Trát Ba vào. Bên trong đang bật nhạccủa The Bea tles. Tôi ngồi trước quầy bar, gọi một chai bia của nhà máy địaphương, suy nghĩ về chuyến đi của Trát Ba, cảm thấy tiếc nuối vì không thể đồnghành. Một người Kazakh say rượu lè nhè đòi bật mấy bài hát đang thịnh hành.Nhân viên phục vụ đành đổi đĩa. Tôi uống nốt chai bia rồi lặng lẽ rời khỏi đó.
Đidọc theo phố, qua một phòng bi a, liền vào trong xem thử. Họ đánh cũng được,nhưng hơi thô bạo, cứ như đánh bóng chày vậy. Tôi định lên tiếng khuyên họ nênôn hòa một chút, nhưng nghĩ lại thấy thực ra cũng chẳng có gì, đành chán nản đira.
Rẽvào một con phố lớn, đèn điện quảng cáo sáng rực, rất ồn ào náo nhiệt. Không ngừngcó người hỏi: “Anh bạn có muốn kiếm một cô em người Duy ‘hầu hạ’ không?” Tôi bịảnh hưởng của Trát Ba, ghét nhất là người lạ gọi mình bằng bạn! Lúc ấy rất muốnhỏi ngược lại họ: “Có cho tôi tiền boa không?”, nhưng Trát Ba không ở bên cạnh,mà mấy kẻ này thì kẻ nào cũng hung hãn gớm ghiếc cả, tốt nhất là không nên gâysự thì hơn.
Trởvề khách sạn, tôi lại ngồi ngẩn người ra ngắm bầu trời đêm.
Độtnhiên phát hiện ra trên tường treo một chiếc ghi ta cũ.
Cẩnthận gỡ xuống, nâng niu như cầm đồ quý. Đàn có sáu dây thì đã đứt mất hai,không đánh được hợp âm, chỉ có thể chơi đơn âm. Chỉnh mãi cũng không được âmchuẩn, đành miễn cưỡng chơi tạm. Chơi thử bài “So long, Marinane” của LeonardCohen, thưởng thức cảm giác được đặt tay lên phím đàn. Chơi xong, nhất thờicũng không biết làm gì, liền ngồi đó đàn lại tất cả các bài hát cũ của LeonardCohen một lượt.
Đặtđàn xuống.
Ngồidựa lưng vào ghế, ngẩng đầu ngắm sao Bắc Đẩu.
Ngânnga lại bài “Những Bông Hoa Ấy”.
Đếnđoạn “chúng ta là vậy, mỗi người một phương” thì chợt nhớ đến Bất Bất, một cảmgiác chua xót không biết từ đâu tràn về, nước mắt bỗng dưng trào ra.
Đếngiờ, cuối cùng thì tôi cũng biết, cũng phải thừa nhận, tôi và Bất Bất đã “mỗingười một phương”. Từ đây hai người đi trên hai con đường khác nhau, không cònliên quan tới nhau nữa, cũng không còn ảnh hưởng gì cho nhau cả. Cái gọi là đaulòng vì tình, thực ra chỉ là tưởng tượng của cá nhân, c chuyện của một mìnhmình, hoàn toàn không liên quan gì đến Bất Bất cả. Tôi cần phải dũng cảm mạnh dạnbắt đầu cuộc sống mới, không thể để nỗi đau này tiếp tục hoành hành tác quái đượcnữa.
Cuộcsống là của tôi, không thể giao vào tay một người đã đầu hàng “quân địch”.
Giờtôi đã biết mình cần giao nó vào tay ai.
Chỉhận không thể lập tức giao nó cho em mà thôi.
Tôichạy ra quầy tiếp tân, gọi điện về nhà.
Khôngai nghe. Tiếp tục gọi lại. Mãi về sau mới có người bắt máy, là Lông Mi.
Tôikích động gào lên: “Anh là Quản Ngai đây, anh ở Tân Cương, em khỏe không? Có muốntới đây không? Chúng ta …”
Điệnthoại đột nhiên tút tút liên hồi.
Tôibuộc phải nhấc ống nghe ra xa.
Ápống nghe trở lại tai, chỉ nghe Lông Mi “alô, alô” không ngừng, một lát sau thìgác máy.
Tôinhìn chủ khách sạn, anh ta cũng nhìn lại tôi.
Cảhai đều không biết làm thế nào, không tiện chiếm mãi điện thoại, đành dập máy.
Cứthế lại thêm mấy ngày nữa trôi qua.
Độtnhiên có cảm giác mình giống một con diều đứt dây, bay lượn trên không trung mộtcách đáng thương hại.
Sợidây đó vốn nằm trong tay Bất Bất. Bất Bất đột nhiên buông tay. Hi vọng Lông Micó thể nắm lấy. Rồi không hiểu sao lại phiêu bạt tới dây, cũng may là được TrátBa với Kha Lan giữ lại. Giờ họ lại như cố ý muốn buông ra, nhất thời tôi cũngkhông thể nào quen được cái thứ gọi là tự do này. Cảm giác “không quen với tựdo” khiến tôi chìm vào trầm tư.
Trướcnay tôi vẫn tôn sùng “thà chết còn hơn mất tự do”, tại sao đột nhiên lại có cảmgiác “không quen với tự do” như thế này? Lẽ nào phải thay đổi quan điểm và tháiđộ sống của mình trước đây? Không biết nữa. Chỉ là từ sau khi gặp Lông Mi vàTrát Ba, có rất nhiều quan niệm cũ đã bị lung lay, những suy nghĩ mới cứ nhưsóng đập bờ đê, muốn trào dâng lên để tạo thành cơn lũ. Chưa bao giờ tôi mongcó người nắm lấy sợi dây diều, đừng để nó tiếp tục phiêu bạt một cách hoangmang không mục đích như lúc này.
Tôiđã mệt.
Tôicần nơi để dừng chân.
Mấyngày sau đó đề không có tin tức gì.
Gọiđiện qua, không ngờ nghe được tin Kha Lan đang làm thủ tục thôi việc. Tôi kinhngạc vô cùng, vội chạy qua quán nhỏ của Trát Ba, thấy Kha Lan đang rầu rĩ thu dọnđồ đạc, nhìn thấy tôi, cô có vẻ muốn tránh né. Tôi liền chạy tới chặn trước mặt,Kha Lan ngẩng đầu lên, hai mắt cô đã sưng húp lên như hai trái đào, sắc mặt trắngbệnh như tờ giấy.
Timtôi chợt đau thắt lại.
KhaLan báo cho tôi biết Trát Ba đã xảy ra chuyện.
TrátBa đã chết.
Tôingẩn người, đứng đần ra ở đó.
KhaLan không thể khống chế được bản thân, bổ vào lòng tôi khóc òa lên, vẻ mặt tuyệtvọng như bụi cỏ lạc đà cuối cùng sắp bị sa mạc nhấn chìm trong cát.
Sángsớm hôm sau, tôi đã ngồi trên xe lửa trở về.
Trướckhi đi, tôi cầm hết tiền trong người đưa cho Kha Lan. Cô đã mất Trát Ba, khôngcòn công việc, lại là một cô nhi, số tiền này có lẽ sẽ cần thiết. Kha Lan sốngchết thế nào cũng không chịu nhận, cuối cùng đầnh miễn cưỡng cầm lấy, cẩn thậncho vào túi, dáng vẻ thương tâm khổ sở lúc đó của cô khiến tôi càng thêm khó chịugấp bội phần. Kha Lan do dự một lúc lâu, rồi mới đưa cho tôi một chiếc phong bìlớn, yêu cầu tôi lên tàu rồi hãy mở ra.
Buổitối hôm trước khi lên đường, tôi có tìm đến quán bar nhỏ, nơi tôi và Trát Ba,Kha Lan đã từng đến qua.
Bêntrong không bật The Beatles nữa. Tôi yêu cầu nhân viên phục vụ cho nghe mấy bàicũ của The Bea tles, anh ta lười nhác trả lời khách đã chọn bài khác. Tôi lại hỏikhông thể thương lượng được với người kia à? Anh ta lắc đầu từ chối với thái độrất cương quyết. Không hiểu lúc đó tôi nghĩ gì, mà gọi một bình rượu, dùng sứcđập mạnh xuống đất, một đám người nhảy xổ ra vây lấy đánh tôi tới tấp. Tôi ôm đầu,lách bên trái, tránh bên phải, miệng hét lớn giận dữ, không hề sợ hãi. Chủ quánthấy thế vội vàng chạy tới, kéo tôi ra ngoài, Tôi cũng chẳng buồn cám ơn, ủ rũđi thẳng một mạch. Đã nhiều năm không bị ai ức hiếp, cảm giác này quả thật rấtkhó chịu, khó chịu đến độ khiến tôi suýt bật khóc. Đi qua một cửa hàng thuốc,tôi bèn vào mua một lọ an thần, về khách sạn, đổ ra một vốc uống rồi vùi đầu ngủ.
Ngồitrên xe lửa vắng tanh, tôi mở chiếc phong bì của Kha Lan đưa cho trước khi lênđường ra.
“Cạch!”
Mộtvật gì đó rơi ra.
Tôinhặt lên.
Làmột miếng xương được mài thành hình cái răng.
Trongphong bì còn có một lá thư nữa.
Tôinghi hoặc mở ra đọc, bức thư này là Kha Lan viết cho tôi.
QuảnNgai,
Emvốn định không nói gì với anh cả.
Thựcra là Trát Ba đã đi tìm một chiếc răng báo, bởi chiếc răng báo mà anh ấy báncho anh lúc hai người gặp nhau lần đầu không phải là răng thật. Báo rất khó bắt,thế nên răng báo là đồ rất hiếm.
TrátBa nói, câu đầu tiên mà anh ấy nói với anh là “bạn bè không phải để lừa gạt” .Lúc đó, anh ấy bán răng báo giả cho anh vì không ngờ sau này hai người lại trởthành bạn bè thật, bởi vậy nên anh ấy cứ áy náy không yên mãi.
Lầnđó, sau khi anh phải về trước vì ốm, Trát Ba vẫn tiếp tục đi tìm mua răng báo,nhưng vẫn không có kết quả gì.
Anhấy đến Vu Điền, nghe nói có đội thợ săn sắp xuất phát, một người quen trong độicho biết có tin báo xuất hiện ở gần đó. Trát Ba liền trả giá cao để đặt trước mộtchiếc, về sau không biết thế nào lại thay đổi chủ ý, quyết định đích thân thamgia đội săn ấy.
Họđi dọc theo rìa phía nam của sa mạc Taklimakan, đi sâu vào núi Côn Luân, tìm kiếmdấu vết của báo. Rồi họ tiến vào Tây Tạng, một hôm đội săn đang dừng lại nghỉngơi, thì Trát Ba nghe được tin gần đấy có một di tích cổ không tên, liền mộtmình đến xem thử. Sáng sớm anh ấy đã đi, đến tận trưa mà vẫn không quay lại. Mọingười cảm thấy không ổn, bèn đi tìm. Lúc thấy Trát Ba thì anh ấy đã bị thứ dãthú nào đó xé nát bét người, nhưng vẫn còn chưa đứt hơi. Anh ấy không mang theovũ khí, chỉ dùng đôi tay để chiến đấu với dã thú.
Khiem đến nơi thì Trát Ba đã chết.
Sauđó mọi người đưa anh ấy về Trát Đạt ở Tây Tạng, đó là quê nhà của Trát Ba. Anh ấyđã nói, sau khi chết muốn được thiên táng theo phong tục của quê nhà, nói nếuthân thể được chim ưng ăn hết, linh hồn mình sẽ được cùng chim ưng bay lên tầngtrời cao nhất, tốt đẹp nhất.
Tanglễ do chú của Trát Ba chủ trì, em không dám tham gia. Chú anh ấy là hòa thượngtrong chùa Thác Lâm ở gần Trát Đạt. Em cũng chỉ biết địa điểm Thiên Táng là ởchỗ nào đó gần di tích Cổ Cách, nơi mà Trát Ba đã chọn cho mình từ khi còn rấtnhỏ.
À,chiếc răng trong phong bì thực ra là em nhờ người lấy trộm từ xương vai Trát Bavề đấy. Em nghĩ, nó đối với anh còn quý giá hơn cả răng báo nhiều. Với lại, nhưthế Trát Ba có thể luôn đi theo bảo vệ anh.
Tấtnhiên, em cũng có một chiếc.
KhaLan.
Tôiđeo chiếc răng được mài từ xương Trát Ba lên cổ.
Ngẩngđầu nhìn trời.
Trênbầu trời xanh thẳm cao cút, một chú chim ưng đang kiêu ngạo lướt giữa từngkhông, sải cánh tung bay.
Cúiđầu.
Nhậnra trên chiếc răng còn mờ mờ một vết dao.
“Cólẽ là vết dao lần trước Trát Ba đã đỡ giúp mình?”
Tôivừa nghĩ vừa không kềm được nước mắt trào ra, trong lòng cảm thấy vô cùng hạnhphúc.
Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!