Đất Rừng Phương Nam - Chương 17: Sân chim
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
142


Đất Rừng Phương Nam


Chương 17: Sân chim


Ở vùng này, những chiếc thuyền nhỏ cỡ thuyền
chúng tôi, chẳng ai làm buồm. Có lẽ để tránh bớt sự cồng kềnh, choán chỗ, và để
cho thuyền được nhẹ. Khi cần, cứ chặt một tầu lá dừa nước mọc theo bờ sông cắm
lên thuyền là đã có ngay một chiếc thuyền buồm rồi. Thuyền chúng tôi đổ ra dòng
một con sông lớn, với bốn cánh buồm thiên nhiên kiểu đó, cắm trong bốn lỗ cột
chèo. Má nuôi tôi ngồi giữ lái. Gió đưa chiếc thuyền buồm xanh của chúng tôi
lướt chạy ào ào như chiếc ca-nô. Chạy một mạch hai ngày hai đêm như vậy, đến
ngang một cái chợ, tía nuôi tôi mới “hạ buồm” vứt xuống lòng sông trả
lại cho bà Thủy.

Người
ta gọi chợ này là chợ Mặt Trời. Có lẽ vì chợ nhóm tại doi đất ngã ba vàm một
con kênh có tên là kênh Mặt Trời. Còn thằng Cò thì cứ bảo tôi đây là chợ chim.
Hôm qua, chợ chưa nhóm. Tía nuôi tôi còn cắm sào ở bên chợ, hy vọng có thể bán
nốt mấy tấm da cá sấu còn vướng chỗ trong thuyền. Suốt ngày, ánh nắng rừng rực
đổ lửa xuống mặt đất. Bốn phía chân trời trống huếch trống hoác. Từ lúc mặt
trời mọc cho tới khi mặt trời lặn, không kiếm đâu ra một bóng cây để tránh
nắng. Con kênh Mặt Trời còn phơn phớt màu đào buổi sáng, giữa trưa bỗng hóa ra
một dòng thủy ngân cuồn cuộn lóa mắt, rồi dần dần biến thành một con suối lửa
lúc trời chiều. Năm ba ngôi quán lèo tèo ngó cửa ra một khoảng đất rộng. Trên
mặt đất nứt nẻ, vết cứt chim khô trắng khắp nơi, lông chim theo gió cuốn lên
xoáy tít trong nắng như những cánh bông gòn rụng bay lấp lóa. Từ sáng sớm, ghe
xuồng đã vào cập bến chợ, đậu san sát như lá tre. Mũi xuồng này buộc nối vào
lái thuyền kia, đen kín mặt nước. Tiếng chim kêu râm ran trong đám ghe xuồng và
trên sân chợ. Tía nuôi tôi ngồi uống rượu một mình trong ngôi quán ồn ào, toàn
những đàn bà và trẻ con đang húp cháo chim xì xà xì xụp. Mấy tấm da cá sấu hoa
cà dựng trên ngạch cửa, bên lối ra vào. Mùi chim nướng từ trong những ngôi quán
bay ra thơm phức. Tiếng dao thớt khua lộp cộp trong tiếng chim kêu xé màng tai,
làm cho cái chợ nhỏ lạ lùng này thêm phần náo nhiệt. Má nuôi tôi xách rổ lên
chợ mua chim non và trứng để làm thức ăn dự trữ mang theo thuyền. Thằng Cò, vì
bàn chân hãy còn sưng, không được phép lên bờ, phải ngồi lại trong mui ôm con
Luốc ngó lên chợ, coi bộ thèm thuồng lắm. Tôi cầm bát lên mua một tô cháo chim
băm hành củ rắc hạt tiêu bưng xuống cho nó, rồi quày quả nhảy lên chợ ngay. Con
Luốc cũng muốn theo tôi. Nó cứ vẫy đuôi kêu ư… ử… Nhưng thằng Cò cứ ôm cổ
giữ nó lại. Nó tức mình, quay ra mấy xuồng chim đậu chung quanh gắt ngậu xị.
Chim nhốt trong các giỏ tre nghe tiếng chó sủa, hoảng hốt đập cánh kêu loạn
lên. Tôi đi một mình, luẩn quẩn theo những người bán chim trên chợ. Ngay dưới
bờ sông chỗ tôi đứng, có mấy người đàn bà đang mặc cả, cãi nhau trên một chiếc
thuyền to. Giỏ cần xé chất ngổn ngang, đựng đầy các thứ trứng chim. Từng xâu
chim trắng, chim đen buộc chân, dồn chật trong khoang: những con chim bị trói
chen nhau ngóc cổ lên, con này mổ vào lưng con kia, đập cánh phành phạch. Một
thằng bé gánh tòn ten hai con chim gì lạ quá, cổ dài như cổ rắn, to gấp rưỡi
con vịt bầu, sắc lông màu vàng xám.

– A, bán chim gì đó, mậy?

Tôi men theo, tay chắp
đít hất hàm hỏi nó.

– Con điêng điểng mà cũng không biết!

Cặp môi nó trề ra, cái mặt vênh vênh nhưng bộ
tướng nhỏ thó và đôi mắt chân thật của nó nhìn lâu cũng rất dễ mến.

– Bộ mày ở đâu mới tới hả? -Nó hỏi tôi.

– Ờ, mới tới. Xứ tao cũng… vô khối chim.
Nhưng không giống như chim ở đây, thành ra tao mới hỏi mày chứ!

Tôi nói phét với nó như vậy, để nó đừng chê
tôi là “quê”. Coi ra nó cũng khoái. Nó trỏ từng con chim, gọi tên cắt
nghĩa cho tôi nghe, ý như muốn khoe với tôi rằng nó là “tổ sư Bồ Đề”
ở đây… Những con chàng bè đồ sộ như con ngỗng, mỏ to bằng cổ tay cứ gõ vào
nhau lộp cộp, làm rung rung mảnh da mềm thòng xuống tận cổ như cái diềm lụa mỡ
gà. Những con giang sen cẳng cao lêu nghêu, nặng hàng năm bảy cân thịt, bị khớp
mỏ, tréo cánh đứng giữa đám sếu đen sếu xám mào đỏ, đầu không ngớt nghiêng qua
nghiêng lại ngó theo mấy con ó biển đang lượn vòng trên kênh. Cò thì không biết
bao nhiêu mà kể. Cò ngà, cò trắng, cò xanh, cò ma… buộc từng xâu, chất nằm
hàng đống. Một đám đàn bà trẻ con đang ngồi lúi húi vặt lông chim cồng cộc gần
đấy.

– Mày muốn kiếm tiền xài không?

Thằng bé kéo tay tôi, bảo
nhỏ.

– Nhổ lông chim mướn đấy. Mày muốn làm thì
lại nói với cái thím đội nón lông chim ó rằn đang đứng chống nạnh hai quai
trước quán kia kìa!

Thấy tôi lắc đầu, nó hích khuỷu tay vào hông
tôi:

– Chê à? Làm một ngày, kiếm bộn tiền. Mày
không lấy tiền thì lấy thịt chim về ăn. Lông chim bán riêng, thịt bán riêng mà!
Chỗ này mươi giỏ le đặt bên cạnh một đống lồng nhốt đầy chim trích. Những con
trích lông xanh, mỏ đỏ như quả ớt ngắn, cặp chân hồng như đôi đũa sơn, coi bộ
tốt mã nhất. Con nào con nấy lộng lẫy như con gà tre, cứ ngước cổ kêu trích…
trích… ché…, nghe đến nhức màng tai. Chỗ kia lổm ngổm hàng sọt chim cồng
cộc lông đen như nhọ chảo, không ngớt cựa quậy, mổ vào nhau kêu léc chéc.

– Chim ở đâu mà họ bắt nhiều vậy?

Bấy giờ tôi mới đành chịu
hỏi thằng bé ấy.

– Chim bắt ở sân chim chứ đâu, mậy!

– Sân chim ở đâu?

– Ở chỗ nó ở chứ còn ở đâu!

Thằng bé cười cười, ra vẻ thích thú lắm.
Dường như nó chỉ chờ nghe tôi hỏi để được trả lời, nhưng vẫn còn làm bộ làm
tịch, chưa vội bảo ngay. Hồi lâu, nó mới nói:

– Mấy người đàn bà mặc áo cộc tay đứng dưới
tam bản chở trứng chim kia, là dân hốt trứng chim đồng. Trứng le le, trứng
trích, trứng cò… đẻ rơi trong đồng cỏ, không có chủ. Ai gặp nấy hốt. Hốt
trứng tự do mà! Còn cái ông ngồi bán quạt, tết bằng lông ó rằn, lông chim già
đãy ở chỗ mấy con sếu kia, là chủ vườn cò. Mày biết vườn cò hả? Ừ, vườn cò…
thì chỉ có cò ở thôi. Không nhiều bằng sân chim đâu. Sân chim thì vô phương nói
được. Đủ các thứ chim. Mày thấy mới biết! Mặt trời đã lên cao. Nắng bắt đầu gay
gắt. Cái chợ chim nhóm giữa trời đã có phần bớt huyên náo. Bỗng nghe tiếng
hu… hu… từ đâu vẳng tới. Mọi người còn đang ngơ ngác ngóng lên trời thì từ
dưới đám thuyền có tiếng thét vang dội:

– Máy bay giặc, bà con ơi!

Chợ nhốn nháo như vỡ đám làm chay. Người ta
quýnh quáng chạy tới chạy lui lộn xộn trên khoảng đất trống. Không một lùm cây,
bụi cỏ để lấy chỗ nấp tạm. Nhiều người đàn bà hãi quá, nhảy bừa xuống kênh tìm
một chỗ ẩn mình dưới các gò đất dựa bờ. “Con đầm già đi guốc” bay là
là trên mặt sông, vút qua ngang chợ. Nó cất lên cao, rồi từ từ quay lại lượn
trên chợ một vòng, thả ra những cục gì đen đen. Tôi nằm úp mặt xuống đất, nín
thở chờ nghe tiếng nổ.

– Giặc thả truyền đơn, bà con ơi!

– Đừng sợ, nó không bắn đâu!

-Ai dám nói nó không bắn đó!

Tiếng kêu thét, cãi nhau nghe ran chung
quanh. Tôi nghiêng đầu ngó lên. Những cục đen đen từ trong chiếc thủy phi cơ
thả ra ban nãy đã tan trong gió, bay trắng trời, lấp lánh trong nắng như vảy
cá. Gió thổi giạt những tờ truyền đơn bay đi xa lắc. Ghe xuồng vội vã chèo đi.
Giầm chèo va vào nhau, khua lốp cốp. Chim kêu điếc tai. Tiếng hú, tiếng ì,
tiếng gọi nhau ran mặt nước. Khi tôi chạy xuống bến, trèo lên thuyền thì đã
thấy bộ da cá sấu vắt nằm trước mũi. Tía nuôi tôi cũng vừa quay xong quai chèo
lái. Tôi chụp lấy guốc chèo mũi, quạt mạnh mấy cái, đưa thuyền quay ra cho trôi
xuôi theo dòng. Trong chốc lát, ngoảnh lại thì cái chợ chim đã biến mất chỉ còn
trơ khoảng đất trống và dãy quán lụp xụp đứng buồn thiu.

– Không biết giặc rải truyền đơn nói cái gì?

– Mươi hôm trước, nó cũng rải trên chợ Cái
Rắn. Nó gọi mình đầu hàng!

– Bộ đội mình đâu, sao không đánh nó?

– Chỗ nào cũng chờ bộ đội à? Vậy chứ bà con
mình cụt tay hết rồi sao? Nó vô đây, vác dao vác rựa chém nó ra từng khúc như
khúc chuối, cho bỏ cái thói cướp nước người ta.

– Nghe có lính Bắc Bộ ngoài Cụ Hồ đưa vô rồi
mà!

– Ờ, cũng có nghe đấy!

– Sao lại cũng có nghe? Vô nhiều lắm rồi.
Tướng Vũ Đức chỉ huy. Đâu còn ở mạn trên Phước Long.

Mặt sông vang dậy tiếng người tranh nhau nói.
Ai cũng muốn tỏ ra thông thạo. Ai cũng nói, thành ra không ai nghe ai… Thuyền
chúng tôi cứ xuôi theo dòng nước chèo đi. Tía nuôi tôi định đi về hướng Năm
Căn. ông bàn với má nuôi tôi:

– Năm Căn là xứ tiền rừng bạc biển. Sông rạch
hiểm trở. ở đó toàn là rừng. Rừng đước, rừng mắm, rừng bần… Tây khó bề tới.
Về đó, ta có thể đi đốn củi mướn cho các lò than…

Má nuôi tôi nói xuôi lơ:

– Cái đó tùy ông. ở đâu thì ở, miễn được yên
nơi yên chỗ mà làm ăn. Chứ lênh đênh mãi thế này, tôi e có ngày hai đứa nhỏ
chết lép xác thôi!

Mờ sáng hôm sau, tôi còn đang ngủ trong mui
bỗng nghe thằng Cò gọi giật tôi dậy:

– Mau
ra coi, An ơi! Gần tới sân chim rồi. Đã sáng bét mà mày còn ngủ à?

Tôi
giụi mắt bò ra khoang trước, vốc nước dưới sông lên rửa mặt. Trên vệt rừng đen
ở chỗ con sông ngoặt như lưỡi cưa cá mập chơm chởm dựng đầu răng nhọn đã ửng
lên màu mây hồng phơn phớt. Từ chỗ vệt rừng đen xa tít đó, chim cất cánh tua
tủa bay lên, giống hệt đàn kiến từ lòng quả đất chui ra, bò li ti đen ngòm lên
da trời. Càng đến gần, khi bóng chim chưa hiện rõ hình đôi cánh, thì quang cảnh
đàn chim bay lên giống như đám gió bốc tro tiền, tàn bay liên tri hồ điệp.
Những bầy chim đen bay kín trời, vươn cổ dài như tàu bay cổ ngỗng lướt qua trên
sông, cuốn theo sau những luồng gió vút cứ làm tai tôi rối lên, hoa cả mắt. Mỗi
lúc tôi càng nghe rõ tiếng chim kêu náo động như tiếng xóc những rổ tiền đồng.
Và gió đưa đến một mùi tanh lợm giọng, khiến tôi chỉ chực nôn ọe. Chim đậu chen
nhau trắng xóa trên những đầu cây mắm, cây chà là, cây vẹt rụng trụi gần hết
lá. Cồng cộc đứng trong tổ vươn cánh như tượng những người vũ nữ bằng đồng đen đang
vươn tay múa. Chim già đãy, đầu hói như những ông thầy tu mặc áo xám, trầm tư
rụt cổ nhìn xuống chân. Nhiều con chim rất lạ, to như con ngỗng đậu đến quằn
nhánh cây. Một con điêng điểng ngóc cổ lên mặt nước, thoạt trông tôi tưởng là
một con rắn từ dưới nước cất đầu lên. Khi thuyền chúng tôi chèo đến gần, nó bèn
ngụp xuống lặn mất. Chốc sau đã lại thấy nó nổi lên gần bờ, mỏ ngậm con tôm
xanh gần bằng cổ tay còn đang vung râu cựa quậy. Tôi mê quá! Mà thằng Cò cũng
mê như tôi. Hai đứa cùng ước: phải chi mình được dừng thuyền lại đây vài hôm để
bắt chim thì phải biết! Chim từ những đâu tập trung về ở đây, nhiều không thể
nói được! ở đây, còn có rất nhiều giống chim lạ, không thấy bày bán ở chợ Mặt
Trời. Chúng đậu thấp lắm, đứng dưới gốc cây có thể thò tay lên tổ nhặt trứng
một cách dễ dàng. Tôi chồm người ra be thuyền, kêu to:

– Dừng
lại đây bắt một mớ chim đi, tía!

– Sân
chim có chủ, không bắt của người ta được đâu! -Tía nuôi tôi bảo.

– Bộ
họ nuôi nó sao? Chim trời cá nước, ai bắt được nấy ăn chứ!

– Đúng
là không ai nuôi. Nhưng chim về ở trên vùng đất của ai thì nó thuộc về tài sản
của người đó. Họ phải đóng thuế hằng năm như đóng thuế ruộng đấy, con ạ. Thấp
thoáng trong xa, bốn năm người quảy giỏ, cầm sào trúc có ngoéo sắt đang ngoéo
cổ chim non xuống bắt. Coi bộ dễ hơn bắt gà nhốt trong chuồng. Tiếng chim kêu
vang động bên tai, nói chuyện không nghe nhau được nữa. Thuyền chúng tôi chèo
đi hơn ba nghìn thước rồi mà hãy còn thấy chim đậu trắng xóa trên những cành
cây gie sát ra sông.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN