Mỹ Nhân Tóm Lược Truyện - Lệ Cơ + Văn Khương + Tức Vĩ
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
132


Mỹ Nhân Tóm Lược Truyện


Lệ Cơ + Văn Khương + Tức Vĩ


29. Lệ Cơ

Tấn Hiến Công đem quân đánh nước Lệ Nhung. Nước này xin giảng hòa và dâng Hiến Công hai cô gái – Cô chị là Lệ Cơ, nhan sắc mĩ miều như Tức Vỉ, mà gian ngoan không thua Đắc Kỷ. Do đó Tấn Hiến Công say mê, ít khi rời nàng, lại cho Lệ Cơ dự bàn việc nước. Hơn một năm sau, Lệ Cơ sinh con đặt tên là Tề Hề. Em là Thiếu Cơ cũng sinh con tên là Trác Tử.

Trước đây, khi còn là thái tử, Hiến Công đã lấy Giả Cơ, nhưng lâu không có con. Lại lấy cháu gái vua Khuyển Nhung, là Hồ Cơ, sinh con trai tên là Trùng Nhĩ. Rồi lai lấy con vua Tiểu Nhung, sinh con tên là Di Ngô. Tiếp đó, lại thông dâm với vợ thứ tư của bố mình là Tề Khương, sinh con là Thân Sinh. Khi lên ngôi, Giả Cơ mất rồi, nên Hiến Công lập Tề Khương làm hoàng hậu. Do đó, Thân Sinh là thái tử. Tề Khương lại đẻ thêm một con gái rồi mất. Hiến Công lấy em gái của Giả Cơ là Giả Quân. Giả Quân cũng không có con, bèn lấy con gái của Tề Khương làm con nuôi Giả Quân.

Khi có Lệ Cơ, nhất là Lệ Cơ lại sinh con trai bèn lập làm phu nhân, và nói cho Lệ Cơ biết ý muốn cho Tề Hề làm thái tử.

Lệ Cơ rất muốn, nhưng thấy Thân Sinh đã chính thức lên ngôi thái tử, lại thân thiết với các công tử Trùng Nhĩ, Di Ngô, nay thay đổi, phần e các quan dị nghị, phần e mấy người kia chống lại. Do đó, tâu với Hiến Công:

_ Thái tử Thân Sinh là người hiền, chư hầu đều biết tiếng, nay vì mẹ con thiếp mà bỏ người này dùng người kia, khiến cho thần thiếp mang tai tiếng, thà cho thần thiếp chết sớm đi còn hơn.

Tấn Hiến Công tưởng thực, thôi không nhắc tới việc đó nữa. Lúc đó nước Tấn có hai vị quan là Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ được Hiến Công tin dùng, quyền thế rất lớn, người nước Tấn gọi là “hai ông Ngũ”. Ngoài ra còn có một kép tuồng là ưu thi trẻ tuổi đẹp trai, có tài khôi hài được Hiến Công yêu mến, cho tự do vào cung cấm. Lệ Cơ bèn tư thông với Ưu Thi, say mê hết mức, rồi hai người bàn mưu phế ngôi thái tử của Thân Sinh để lập Tề Hề.

Ưu Thi bảo:

_ Nàng nên liên kết với hai ông Ngũ để họ tìm cách tâu với nhà vua cho Thân Sinh và hai công tử Trùng Nhĩ, Di Ngô đi trấn thủ các nơi xa xôi, thì việc ấy mới dễ thành.

Lệ Cơ nghe theo, bảo Ưu thi mang nhiều vàng bạc đút lót cho Lương Ngũ, Lương Ngũ biết ý đồ bèn nói:

_ Muốn nên việc phải có Đông Quan Ngũ nữa.

Ưu Thi nói:

_ Đại phu đừng lo, phu nhân đã có quà biếu Đông Quan Ngũ rồi.

Hôm sau ra chầu, hai ông Ngũ bèn mượn cớ để phòng thủ đất nước cho vững, tâu với Hiến Công cho thái tử Thân Sinh ra cai trị Khúc Ốc, nơi có lăng mộ tổ tiên, và sai Trùng Nhĩ và Di Ngô ra hai đất Bồ và Khuất nơi biên giới để phòng thủ các nước Nhung, Địch.

Thân Sinh càng ngày càng lập được công trạng, nên Ly Cơ chưa sao hãm hại được. Lại cùng Ưu Thi bàn mưu kéo cánh với những quan to khác là Lý Khắc, Tuân Tức.

Một đêm, Lệ Cơ nỉ non bên gối Tấn Hiến Công.

_ Thái tử ở Khúc Ốc đã lâu ngày rồi. Bệ hạ nên triệu về chầu. Vừa phần cha con gặp mặt, vừa phần thiếp cũng có cớ giao thiệp. May ra thái tử thg tình mẹ con thiếp chăng?

Tấn Hiến Công cho triệu Thân Sinh về. Thân Sinh chào vua cha, rồi cũng vào chào Lệ Cơ. Lệ Cơ bèn bày tiệc rượu khoản đãi. Hôm sau, Thân Sinh lại vào cung Lệ Cơ để tạ ơn – Lệ Cơ giữ lại cùng ăn cơm. Tối hôm đó, nằm bên Hiến Công bỗng Ly Cơ sụt sùi nức nở. Hiến Công hỏi nguyên cớ. Lệ Cơ nói:

_ Trưa nay thiếp giữ thái tử ở lại trong cung dùng bữa, khi ngà ngà rượu, thái tử bỗng bỡn cợt bảo: “Cha tôi già rồi, liệu mẹ có chịu được không?”. Thần thiếp tức quá nên không trả lời. Thái tử lại nói: “Ông tôi ngày xưa khi già cũng đem mẹ tôi là Tề Khương giao cho cha tôi. Nay cha tôi già, ắt cũng giao nàng cho tôi chứ sao nữa?”. Nói rồi, Thái tử toan giở trò cưỡng hiếp, thần thiếp vùng vẫy mãi mới chạy thoát được.

Hiến Công ư hử…Lệ Cơ bèn nỉ non:

_ Nếu nhà vua không tin, xin để thiếp cùng Thái tử dạo chơi ở vườn hoa, rồi đứng trên đài quan sát.

_ Tấn Hiến Công bằng lòng. Sáng sau cho Lệ Cơ mời Thân Sinh vào cung rồi rủ cùng ra dạo vườn hoa, Thân Sinh nể lời không dám trái ý -Trước khi ra vườn, Lệ Cơ đã ngầm bôi mật ngọt và nước thơm vào mái tóc.

Khi đi ngang qua các rặng hoa, quả nhiên ong bướm bu lấy đầu Lệ Cơ. Nàng tỏ vẻ cuống quýt chợt quay lại bảo Thân Sinh.

_ Sao Thái tử không giúp ta xua ong bướm đi.

_ Thân Sinh vô tình, lấy vạt áo xua ong bướm bay quanh đầu Lệ Cơ.

Đứng trên đài cao nhìn thấy, Hiến Công cho là Thân Sinh suồng sã cố ý trêu ghẹo Lệ Cơ, bèn tức giận sai người bắt chém – Lệ Cơ vội vàng quỳ xuống van nài:

_ Nay thiếp rủ Thái tử đi chơi vườn hoa mà bệ hạ lại giết Thái tử thì thiếp sẽ mang tiếng là lập mưu giết Thái tử. Xin nhà vua hãy nén lòng.

Tấn Hiến Công bèn bảo Thân Sinh về ngay Khúc Ốc. Lệ Cơ lại cùng Ưu Thi bàn mẹo, cho người ra Khúc Ốc nói với Thân Sinh rằng “Đêm qua mơ thấy nàng Tề Khương (mẹ Thân Sinh) giữa mộng kêu đói. Thái tử nên mau về làm lễ tế đi.

Ở Khúc Ốc có đền tế Tề Khương, Thân Sinh liền cho bày tiệc tế lễ, sai người đem phần biếu Hiến Công. Gặp khi Hiến Công đi săn chưa về, Lệ Cơ và Ưu Thi ngầm bỏ thuốc độc vào rượu thịt đó, Hiến Công nghĩ Thân Sinh hối lỗi hiếu thảo rót rượu toan uống. Lệ Cơ vội níu tay, quỳ tâu:

_ Mệnh hệ hoàng thượng đáng giá ngàn vàng, thiếp e nhưng thức ăn từ nơi xa đến không tốt. Xin cho thử đã.

Hiến Công nghe theo, đổ ly rượu xuống đất, thấy đất rộp lên, cắt một miếng thịt quẳng cho chó ăn, chó chết liền. Lệ Cơ giả đò chưa tin, sai gọi một nội thị cho ăn, nội thị không chịu ăn, Lệ Cơ ép phải ăn. Nội thị ăn xong hộc máu mồm máu mũi ra rồi chết. Lúc ấy Lệ Cơ giả bộ hoảng sợ, lăn lóc ra đất kêu gào:

_ Cơ nghiệp nước Tấn bao giờ chẳng thuộc về tay Thái tử – Vương thượng tuy già, nhưng sao Thái tử lại không chờ đợi ít lâu, mà dùng độc kế này sao. Thôi thiếp xin thác trước cho rồi. Nói rồi rót rượu giả vờ toan uống. Tấn Hiến Công hôt hoảng, gạt phăng ly rượu, rồi ôm lấy Lệ Cơ vỗ về:

_ Khanh cứ yên tâm. Ta sẽ trị tội nó.

Rồi ra điện Bình Châu, sai người đi giết Thân Sinh. Lệnh tới nơi có người xui Thân Sinh trốn đi nước khác.

Thân Sinh nói:

_ Cha tôi say mê Lệ Cơ, nó bảo gì cũng nghe, giờ thì sai quân đánh tôi, dù có tới đâu tôi cũng bị chê cười, mà cha tôi cũng mang tiếng. Thôi thà chết là hơn.

Nói rồi tự vẫn.

“Hai ông Ngũ” lại bàn với Lệ Cơ tìm cách hại Trùng Nhĩ và Di Ngô. Lệ Cơ bèn nói với Tấn Hiến Công:

_ Ở ngoài người ta đồn 2 công tử Di Ngô và Trùng Nhĩ cùng cánh với Thân Sinh, đổ lỗi cho thiếp, nay sắp mang quân vào kinh đô trừ mẹ con thiếp.

Hiến Công sai người đi bắt Trùng Nhĩ và Di Ngô. Hai công tử này đều tìm cách trốn sang nước khác. Hiến Công bèn lập Hề Tế làm thái tử.

Không bao lâu sau Hiến Công ốm nặng sắp mất. Lệ Cơ khóc lóc:

_ Chúa công nhỡ có mệnh hệ nào, Hề Tế còn bé , bây giờ mà hai công tử ở nước ngoài kéo quân về thì mẹ con thần thiếp biết trông cậy vào ai.

Hiến Công gọi Tuân Tức vào ủy thác cho việc bảo vệ Hề Tế làm vua nước Tấn. Hiến Công mất rồi. Lệ Cơ dắt Hề Tế mới mười một tuổi đến chỗ Tuân Tức. Tức bèn lập Hề Tế làm vua nước Tấn.

Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ can Tuân Tức không được, bèn bí mật bàn nhau, cho võ sĩ gài lẫn vào đám thị vệ, nhân lúc Hề Tế đi ra thì giết. Kế hoạch diễn ra đúng như đã bàn. Ưu Thi cầm gươm tới cũng bị chém chết luôn.

Sau đó, Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ bàn việc đón công tử Trùng Nhĩ về làm vua nước Tấn. Tuân Tức lập Trác Tử lên làm vua nước Tấn, bị bọn Đỗ Ngạn Di chém chết cả đôi, còn “hai ông Ngũ” cũng bị trị tội…

Lệ Cơ được tin chạy vào vườn hoa đâm đầu xuống giếng. Lý Khắc sai vớt lên rồi xả thịt thành từng miếng nhỏ quăng đi.

Kiếp hồng nhan truân chuyên. Tranh quyền, đoạt vị rồi cũng dẫn đến cái kết bi thảm!

Thiếu Cơ, nàng là em gái của Lệ Cơ cùng nhập cung Tấn và là mẫu thân của Trác Tử

Tề Khương là người nước Tề, con gái Tề Hoàn Công. Nàng nhập cung Tấn và sinh ra Thân Sinh

Mục Cơ là con gái của Tề Khương và Tấn Hiến Công. Nàng nhập cung Tần là thê tử của Tần Mục công

30. Văn Khương

Nguyên Tề Hi Công có hai người con gái rất xinh đẹp. Người lớn là Tuyên Khương đã gã cho Vệ hầu, còn lại người nhỏ là Văn Khương. Nàng này mặt hoa, mày liễu, nhan sắc tuyệt vời, lại thêm học hành thông thái, thi phú rất giỏi, vì thế gọi là nàng Văn Khương.

Văn Khương lại còn có người anh cùng cha khác mẹ, tức là Thế tử Chư Nhi, chỉ lớn hơn nàng độ vài tuổi, diện mạo phương phi, ra chiều trang nhã, nhưng phải cái tánh đa mê sắc dục. Từ nhỏ đến lớn, Chư Nhi và Văn Khương thường lui tới, gần gũi nhau, do đó trong tình anh em lại có ẩn thêm một mối tình luyến ái.

Tề Hi Công vốn chiều con không bắt buộc giữ gìn khuôn phép, nên về sau sanh điều tệ hại. Khi Thế tử Hốt đánh tướng giặc Bắc Nhung, Tề Hi Công thường khoe tài Trịnh Thế tử trước mặt Văn Khương và thường nhắc đến việc hôn nhân của nàng với Thế tử Hốt. Văn Khương lấy làm đắc ý. Nhưng về sau, nghe tin Thế tử Hốt từ hôn, nàng buồn bã mà sanh bệnh, bỏ ăn, bỏ ngủ, ngày đêm mê hoảng.

Thế tử Chư Nhi thường lại thăm nàng lân la bên giường bệnh, gây thêm mối tình dan díu. Tuy nhiên vì lúc nào cũng có cung nhân hầu hạ một bên nên chưa đến nổi sanh điều dâm loạn. Một hôm vua cha vào thăm con gái, thấy Thế tử Chư Nhi đang ngồi chung giường với Văn Khương liền kêu ra ngoài mắng:

_ Mi là anh sao mi không biết tị hiềm vậy?

Chư Nhi cúi đầu làm thinh không đáp.

Tề Hi Công nói:

_ Từ nay mi chỉ được sai cung nhân đi thăm mà thôi, không nên lân la như vậy nữa.

Chư Nhi bẽn lẽn lui ra.

Từ ấy, chàng ít khi lui tới.

Cách đó không lâu, Tề Hi Công cưới con gái của Tống Công cho Thế tử Chư Nhi.

Ðược vợ, Chư Nhi thỏa tình tơ tóc quên lảng cuồng vọng riêng , nên anh em càng ngày càng xa lần.

Văn Khương ở nơi phòng loan vắng vẻ, lại thêm thương nhớ Chư Nhi, bịnh thế càng nặng hơn nữa.

Lúc bấy giờ tại nước Lỗ, Lỗ Hoàn Công khi nối ngôi đã lớn tuổi mà chưa có vợ.

Quan Ðại phu Tang Tôn Đạt tâu rằng:

_ Chúa công nên xem việc tôn miếu là trọng mà kiếm người làm chủ trong cung mới được.

Công tử Vận cũng quỳ tâu:

_ Hạ thần trộm nghe thiên hạ đồn rằng con gái Tề Hi Công là Văn Khương nhan sắc tuyệt mỹ. Trước kia muốn gã cho Thế tử Hốt, nhưng việc không thành. Nay xin Chúa công cho người qua đó cầu hôn ắt đặng.

Lỗ Hoàn Công nghe theo, liền sai Công tử Vận qua Tề cầu hôn.

Tể Hi Công thuận ý, nhưng lại thấy Văn Khương còn tại bệnh nên hẹn nán lại ít lâu. Cung nhân hay được việc ấy, thuật lại với Văn Khương. Nàng lấy làm mừng lần hồi thuyên bệnh. Kịp đến lúc Tề và Lỗ hội nơi đất Tắc.

Lỗ Hòan Công đem chuyện cầu hôn ra bàn. Tề Hi Công lại một một lần nữa chấp thuận và đính ước năm đến. Năm sau, vào năm thứ ba của Lỗ Hoàn Công, công tử Vận xin thay mặt vua đem lễ vật sang Tề để rước nàng Văn Khương về Lỗ. Thế tử Chư Nhi nghe được tin, giả chước sai cung nhân đem hoa tặng Văn Khương, trong hoa có giấu một bài thơ:

Hoa đào đang độ hây hây
Ðượm tình thơ mộng những ngày xa xưa.
Càng hoa hé cửa song thưa,
Tiếc thay! Con bướm vẫn chưa đi về.

Văn Khương xem thơ hiểu ý, đáp lại rằng:

Vườn xuân một cánh hoa đào
Năm nay chưa bẻ, hẹn vào năm sau
Hửng hờ bóng nguyệt canh thâu
Hoa xuân đâu đã phai màu thời gian.

Chư Nhi đọc bài thơ ấy, biết Văn Khương có dạ tưởng mình, lòng càng mơ mộng.

Cách đó vài hôm, công tử Vận đem lễ vật đến nước Tề.

Tề Hi Công quá thương con gái, nên có ý thân hành đưa Văn Khương sang Lỗ.

Chư Nhi biết được ý định, vào quỳ tâu:

_ Nay phụ thân gã tiện muội cho vua Lỗ, đó là việc rất hay, hai nước càng thân thân mật. Song vua Lỗ đã không sang đón, mà phụ thân lại phải đưa đến, e thất thế đi chăng. Xin phụ vương giao việc ấy cho con thay mặt cũng được.

Tề Hi Công nói:

_ Ta đã hứa đích thân đưa Văn Khương qua Lỗ, thì nay không thể thất tín.

Nói vừa dứt lời, được tin Lỗ Hoàn Công thân hành đến đất Hoan, thuộc nước Lỗ, để tiếp đón.

Tề Hi Công nói:

_ Lỗ Hoàn Công là một người trọng lễ, sợ ta đi xa mệt nhọc nên đến nữa đường tiếp đón, ta há lại thất lễ sao!

Chư Nhi buồn bã nín lặng bước ra, đợi đến lúc khởi hành, giả vờ đến tiển em, ghé vào tai Văn Khương nói nhỏ:

_ Em chớ quên những lời trong thơ hôm trước.

Văn Khương, lòng bịn rịn nhìn anh đáp:

_ Xin anh cứ an tâm, ngày xuân còn dài, lo gì không có lúc hội ngộ.

Tề Hi Công trao việc quốc chính lại cho Thế tử Chư Nhi, rồi cùng Văn Khương lên đường.

Ðến đất Hoan, Lỗ Hoàn Công đã bày sẳn tiệc lễ đợi chờ. Hai bên gặp nhau vui vầy khôn xiết. Tiệc mãn, Tề Hi Công cáo từ trở về nước, còn Lỗ Hoàn Công đưa Văn Khương về kinh đô làm lễ giao bối.

Lỗ Coàn Công thấy Văn Khương tài sắc vẹn toàn, đem lòng quý mến.

Kế đó Tề Hi Công lại sai Di Trọng Niên đem lễ vật đến để thăm viếng.

Từ đấy mối tình của hai nước rất nên khăng khít.

Nguyên nàng Văn Khương nghe sứ Tề sang mời Lỗ Hoàn Công, sực nhớ đến anh, nên xin với Lỗ Hoàn Công cho đi theo về thăm quê quán, Lỗ Hoàn Công vốn chiều vợ nên nhận lời.

Khi đến sông Lạc thuỷ, vợ chồng Lỗ Hoàn Công đã thấy Tề Tương Công đón sẵn. Hai bên tay bắt mặt mừng cùng nhau trở về Kinh đô Lâm Tri. Lỗ hầu đặt bày chiếu mạng vua Châu, nghị việc hôn nhân. Tề hầu cảm động bày tiệc đãi đằng rất trọng hậu.

Tiệc mãn Tề Tương Công xin phép Lỗ Hoàn Công đưa nàng Văn Khương vào cung để thăm viếng các cung phi. Lỗ Hoàn Công thuận ý Tề Tương Công dẫn Văn Khương vào trong một phòng kín đã sắp đặt sẵn, hai anh em uống rượu vui vầy rồi bày cuộc gió mưa.

Người sau có bài thơ cười Tề Tương Công như vầy:

Khéo vẻ làm chi cái giống hề
Hôn quân dâm loạn nghỉ mà ghê
Gái xinh thiên-hạ, đời không thiếu
Mà lấy em mình chịu tiếng chê!

Sáng hôm sau mặt trời đã cao, mà hai người vẫn còn ôm nhau nằm ngũ mãi. Lỗ Hoàn Công ở ngoài đợi lâu quá, sanh buồn, lại có ý nghi hoặc vợ mình, chẳng biết bên trong cánh cửa cung thăm thẳm ấy có việc gì rối lòng chăng? Mà dù có nghi hoặc cũng không làm sao hiểu thấu, khi mà tường cao vòi vọi, bức rèm châu đã khép cánh song thưa. Tuy nhiên, lòng thấy nao nao không thể nào chịu được.

Lỗ Hoàn Công bèn cho người dò xét mới hay Tề Tương Công chưa có Chánh phi, chỉ có Thứ phi là Liên thị em họ của quan Đại phu Liên Xứng, mà Tề Tương công đã ghét bỏ từ lâu rồi. Lại nghe nói đêm vừa rồi, chỉ có anh em Tề Tương Công tư tình chứ không có phi tần nào cả. Lỗ Hoàn Côn

g uất hận vô cùng, bỏ ra ngoài thơ thẩn nơi hiên Tây, bỗng gặp Văn Khương từ đàng xa lểnh mểnh đi đến.

Lỗ Hoàn Công đưa mắt nhìn từ đầu đến chân, rồi nói:

_ Đêm hôm ái khanh uống rượu với ai?

Văn Khương nũng nịu đáp:

_ Thần thiếp vui vầy với Liên thị.

Lỗ Hoàn Công hỏi:

_ Vui đến bao lâu mới hết?

Văn Chương đáp:

_ Đã lâu quá chưa gặp nhau, nên vui mãi cho đến lúc trăng lên đỉnh đầu mới thôi.

_ Anh của phu nhân có đến đó dự tiệc chăng?

_ Không, anh tôi đâu có lại đó dự tiệc?

_ Chẳng lẽ anh em lâu ngày xa cách lại không cùng nhau uống một chén rượu cho vui sao?

Văn Khương có vẻ lưỡng lự, đáp:

_ Lúc mãn tiệc, anh tôi có đến uống một chun rượu rồi đi ngay.

Xét thấy lời nói và thái độ Văn-khương có điều uẩn khúc. Lỗ Hoàn Công lại càng nghi ngờ nói:

_ Tiệc mãn sao ái khanh không ra ngay còn ở trong đó làm gì?

_ Vì đêm khuya quá, thần thiếp thấy ra ngoài bất tiện.

_ Thế thì ái khanh đã ngủ lại nơi đâu?

_ Trong cung thiếu gì nơi nghỉ ngơi, sao quân hầu lại hỏi lẩn thẩn như thế?

_ Tại sao ái khanh lại dậy trưa?

_ Vì uống rượu quá say nên mệt mỏi, không thể dậy sớm nỗi.

_ Ái khanh ngũ chung với ai?

_ Thần thiếp ngủ chung với mấy người cung nhân nơi Tây cung.

_ Còn anh của ái khanh ngủ ở đâu?

Văn Khương sợ sệt, làm ra mặt giận đáp:

_ Anh ngủ ở đâu làm sao em gái biết mà nói rõ được!

Lỗ Hoàn Công cũng giận dữ nói:

_ Thế mà ta biết anh của ái khanh đã ngủ đâu và ngủ với ai rồi. Ái khanh đừng có giấu diếm làm gì.

Văn Khương hổ thẹn, khóc oà.

Lỗ Hoàn Công lòng đầy hậm hực nhưng biết mình đang ở trên đất Tề khó lòng nói năng được, nên vào từ giã Tề Tương Công về nước.

Đoạn này kể về việc Tề Tương Công bày mưu giết Lỗ Hoàn Công, Lỗ Trang Công tìm cách báo thù cho cha vì thế mà làm vỡ lở chuyện xấu của Văn Khương và Tề Tương Công khiến nàng hổ thẹn không dám quay về nước Lỗ. Sau Lỗ Trang Công cho người đón về.

Tề Tương Công nghỉ lại việc xấu của mình lấy làm hối hận, sợ Lỗ Hoàn Công hay được, nên sai người tâm phúc là Thạch Chi Phân Như theo dõi. Phân Như trở về kể lại những lời cãi vã vừa rồi của vợ chồng Lỗ Hoàn Công cho Tề Tương Công nghe.

Tề Tương Công bối rối, nói:

_ Ta không ngờ Lỗ hầu lại có thể biết được việc ấy. Như thiên hạ hay được thì việc cầu hôn của ta với vua nhà Châu ắt bại sự.

Bèn khiến Phân Như đòi Công tử Bành Sinh đến dạy việc. Công tử Bành Sinh vào chầu, Tề Tương Công nói:

_ Nay ta muốn lập kế giết Lỗ hầu, chẳng hay khanh có bằng lòng giúp sức chăng?

Bành Sinh ngạc nhiên hỏi:

_ Lỗ hầu đến đây để làm chủ hôn cho Chúa-công, sao Chúa Công lại có ý ấy?

_ Tề Tương Công cực chẳng đã phải đem câu chuyện mình thố lộ cho Bành Sinh biết.

Tuy không bằng lòng hành động của Tề Tương Công, song Bành Xinh có cựu thù với Lỗ trong lúc đánh nước Kỹ, bị Lỗ bắn trúng tim gần chết, nên nhận lời.

Tề Tương Công cả mừng, đặt tiệc nơi quán địch sai người mời Lỗ Hoàn Công đến dự trước khi về nước. Tề tương Công tiếp đãi rất ân cần, nhưng Lỗ Hoàn Công mặt dàu dàu, ngồi gục đầu xuống đất, không nói năng gì cả. Tề Tương Công truyền cho bọn cung nga, mỹ nữ rất đẹp, ca múa và dâng rượu.

Lỗ Hoàn Công nhận lúc đau đớn trong lòng cũng muốn dùng rượu để khuây khoả, nên lần uống hết. Đến lúc quá say, Lỗ Hoàn Công không còn biết gì nữa, nằm gục trên ngự ỷ. Tề Tương Công liền sai Công tử Bành Sinh phò Lỗ Hoàn Công lên xe, về sứ quán. Bành Sinh ngồi bên cạnh, khi ra khỏi quốc môn vài dặm thấy Lỗ hầu ngủ say. Bành Sinh cho hai ngón tay vào cạnh sườn, bóp rất mạnh. Lỗ Hoàn Công bị gãy xương sườn, la lên một tiếng rồi hộc máu chết tươi. Bành Sinh mới hô hoán rằng Lỗ hầu bị say rượu nên cảm gió mà chết. Tề Tương Công hay tin, giả cách khóc lóc thảm thương, cho người tẩn liệm theo vương lễ, rồi tin về nước Lỗ. Quân sĩ đi theo Lỗ Hoàn Công trở về thuật lại chuyện vua nước Lỗ bị chết trên xe.

Quan Đại phu Thân Nhu nói:

_ Trong nước không nên để một ngày không có vua.

Công tử Khánh Phủ nói:

_ Tề Hầu vô đạo, loạn luân làm hại tính mệnh phụ thân tôi, vậy để tôi cử đại binh sang vấn tội mà báo thù.

Thi Bá can rằng:

_ Việc này còn ám muội, vả lại nước ta yếu, nước Tề mạnh, vị tất đã trả được thù mà còn bươi tiếng xấu. Chi bằng viết thư sang Tề buộc Tề hầu giết Bành Sinh đi. Nếu tướng Bành Sinh chết sau nầy ta tính chuyện báo thù rất dễ. Thân nhu nói lại với Công-tử Khánh Phủ rồi sai Thi Bá viết thư đưa qua Tề. Lúc đó Thế tử Đồng đang cư tang không ký tên, nên Thân Nhu đứng thay. Thư ấy như sau:

“Ngoại thần Thân Nhu kính gởi Tề hầu ngự lãm. Chúa tôi vâng mệnh Thiên tử qua quí quốc để bàn định việc hôn nhân không biết lâm bệnh thế nào mà chết trên xe. Đường xa cách trở, lại nghe thiên hạ đồn nhiều tiếng xấu, nước tôi thật lấy làm hổ thẹn. Nếu muốn giữ tiếng tăm, xin hiền hầu hãy bắt Bành Sinh mà trị tội, nước tôi lấy làm may mắn.”

Tề Tương Công được thư, cho người gọi Bành Sinh đến.

Bành Sinh cậy mình có công, ngang nhiên bước vào.

Sứ nước Lỗ cũng có mặt nơi đấy.

Tề Tương Công làm mặt giận quở trách:

_ Ta thấy Lỗ hầu quá say nên sai ngươi phò tá, ngươi lại không giữ gìn để Lỗ hầu phải chết như vậy tội thật đáng chém.

Nói xong hô vô sĩ trói lại, dẫn ra chợ mà gia hình.

Bành Sinh uất hận hét lớn:

_ Hôn quân! Đã dâm loạn với em gái mình, lập mưu giết Lỗ hầu, lại còn đổ lỗi cho ta sao? Dầu có chết, ta quyết làm quỉ , mà banh thây ngươi ra muôn mảnh!

Tề Tương Công ngồi chết điếng.

Cả quân sĩ và triều thần ai nấy đều bụm miệng, nín cười.

Cách đó không lâu, Tề Tương Công vào triều Châu xin cưới nàng Vương Cơ và làm ma chay, đưa linh cửu Lỗ Hoàn Công về nước.

Còn nàng Văn Khương vì hổ thẹn, ở luôn bên nước Tề không về nước Lỗ.

Lễ an táng vua Lỗ xong. Thế tử Đồng lên nối ngôi, tức là Lỗ Trang Công. Ngày Lỗ Trang Công tức vị, các quan đều chầu chực đủ mặt.

Lỗ Trang Công hỏi:

_ Phụ thân ta trước kia vâng mệnh Thiên tử đứng chủ hôn cho Tề Tương Công, nay công việc chưa thành mà tạ thế. Vậy chư khanh có ý chi chăng?

Thi Bá nói:

_ Nước ta hiện có ba điều nhục. Điều thứ nhất là Tiên công ta dẫu đã an táng nhưng tiếng xấu vẫn còn. Điều thứ hai là Quốc mẫu hiện nay lưu lại bên nước Tề, thiên hạ dị nghị. Điều thứ ba là nước ta có tang, không làm được trọng trách của Thiên tử đã uỷ thác.

Lỗ Trang Công nghe nói buồn bã hỏi:

_ Ba điều nhục ấy có cách nào rửa được chăng?

Thi Bá nói:

_ Điêu thứ nhất muốn cho Tiên công dưới suối vàng được hài lòng thì phải làm cho danh tiết của Tiên công được vẻ vang. Trước kia Tiên công lên ngôi chưa đặng vương mạng, bây giờ cũng nên nhân dịp chủ hôn mà xin vương mạng cho Tiên công. Điều thứ hai nên rước quốc mẫu về mà phụng dưỡng. Điều thứ ba là việc chủ hôn thực khó lưỡng toàn. Nay phải cất một nhà quán địch nơi ngoài đồng rồi rước Công chúa Vương Cơ đến nhà ấy mà đưa sang Tề. Chúa công cáo tang không đến. Làm như vậy, trên không nghịch chỉ vua, dưới không mích lòng các chư hầu, mà cũng hợp với vương lễ nữa.

Lỗ Trang Công khen lời của Thi Bá rất phải liền sai quan Đại phu Chuyên Tôn sính sang triều Châu đón Công chúa Vương Cơ, và luôn tiện xin vua Châu phong cho Lỗ Hoàn Công. Vua nhà Châu chuẩn tấu, bèn sai sứ qua nước Lỗ để ban áo mão cho Lỗ Hoàn Công.

Châu công Hắc Kiên lãnh mạng xin đi.

Châu Trang Vương không đồng ý, sai quan Đại phu Vinh Thúc qua Lỗ. Sở dĩ Châu Trang Vương không muốn Châu công Hắc Kiên ra ngoài nước là vì Châu Trang Vương có một người em tên Vương Tử Khắc, trước kia Châu Hườn Vương còn sống có lời phú tthác cho Châu công Hắc Kiên, nay sợ Châu công Hắc Kiên liên kết với các ngoại bang tạo nên vây cánh.

Hắc Kiên thấy Châu Trang Vương không muốn cho mình đi sứ, hiểu ngay nội ý, đêm ấy qua dinh Vương Tử Khắc kể tỏ sự tình.

Vương Tử Khắc nói:

_ Đã bị nghi ngờ thì làm cách nào thoát khỏi tai nạn?

Châu công Hắc Kiên nói:

_ Nếu đã bị vua nghi ngờ thì tai nạn không tránh khỏi, chỉ có cách sớm liệu là hơn.

Đoạn Hắc Kiên bàn mưu, nhân đám cưới của Vương Cơ mà nổi loạn, cướp ngôi Châu Trang Vương.

Quan Đại phu Tần Bá biết được liền đem thuật lại với Châu Trang Vương. Châu Trang Vương nổi giận bắt Châu công Hắc Kiên đem chém, và dẫn quân bao vây tư dinh bắt Vương Tử Khắc. Nhưng Vương Tử Khắc hay tin trốn qua nước Yên tị nạn. Quan Đại phu Chuyên Tôn Sính được phụng mạng đưa Công chúa Vương Cơ sang Tề, rồi lại được Lỗ Trang Công ủy nhiệm rước nàng Văn Khương về Lỗ.

Tề Tương Công bịn rịn không nỡ để nàng Văn Khương trở về nhưng vì sợ dư luận thành thử cuối cùng phải gạt lệ chia ly.

Văn Khương buồn tủi lên đường, lòng đầy hổ thẹn. Khi qua đến đất Chướng, nơi biên giới Tề- Lỗ, thấy phong cảnh tốt tươi, muôn hoa tươi đẹp, Văn Khương nghĩ thầm:

_ Đã trót lầm lỗi, nay về Lỗ làm gì. Đất này không thuộc Lỗ, cũng không phải Tề thế thì ta ở đây mà dung thân cho an phận.

Nghĩ rồi cho bọn tùy tùng về tâu lại với vua Lỗ rằng:

_ Gái góa bụa này muốn tìm chỗ thanh tịnh ở cho an nhàn. Lúc nào sắp chết mới về cung.

Bọn tùy tùng trở về tâu lại.

Lỗ Trang Công biết mẹ mình hỗ thẹn mà không về nước nên khiến cất một nhà quán nơi Chức Khâu để Văn Khương yên trú. Từ đó, Văn Khương vui với phong cảnh mà khuây khỏa mảnh hồng nhan.

Một vài đoạn nói về nàng Văn Khương trong dân gian còn được lưu truyền

Từ Đông Châu Liệt Quốc: Tề Văn Khương mạo mỹ, tỷ hoa hoa giải ngữ, tỷ ngọc ngọc sinh hương — nàng Văn Khương nước Tề hình dung đẹp đẽ, nếu đem so với hoa thì như là hoa biết nói, nếu đem so với ngọc thì như là ngọc toát hương thơm.

Tệ cẩu là một bài dân ca rất phổ biến trong nước Tề và nước Lỗ cũng nhiều người biết. Nguyên nhân của nó là, nàng Tề Văn Khương (công nữ nước Tề) trước đây là loạn dâm với anh ruột là Chư Nhi, sau gả nàng cho công tử nước Lỗ nàng vẫn còn thông dâm với anh ruột, xúi anh ruột giết chồng mình, rồi cả hai cùng truy hoan ở nơi biên giới hai nước. Dân Tề thấy giận và thẹn bèn đặt ra bài Tệ cẩu (tệ như chó).

Mạnh Nhâm, người vợ kết tóc se tơ của Lỗ Trang công nhưng không được phong làm chính thất vì bị Văn Khương ngăn cản. Nàng là mẹ của Công tử Ban.

Nàng là con gái của Tề Tương công (anh ruột của Văn Khương), là vợ của Lỗ Trang công do Văn Khương chỉ định. Nàng không có con.

Theo Sử ký, Ai Khương là con gái của Tề Tương công, cháu gọi Tề Hoàn công bằng chú. Nàng có người cô ruột là Văn Khương lấy vua Lỗ Hoàn công, sinh ra Cơ Đồng.

Cô Văn Khương tư thông với cha Tề Tương công, khi bị Lỗ Hoàn công biết, Tề Tương công bèn giết Lỗ Hoàn công.

Người em họ của nàng là Cơ Đồng lên nối ngôi, tức là Lỗ Trang công, khi đó 13 tuổi. Để hai nhà thêm thân, sau đó Văn Khương bắt Lỗ Trang công lấy con gái Tề Tương công, đó là Ai Khương. Vì Ai Khương còn nhỏ, Lỗ Trang công bị muộn con, lại lấy cả em gái Ai Khương là Thúc Khương.

Ai Khương được lập làm phu nhân, nhưng không có con. Em gái Ai Khương là Thúc Khương sinh được một con trai là Cơ Khải (Công tử Khải).

Năm 662 TCN, Lỗ Trang công mất, con là Cơ Ban lên nối ngôi. Ai Khương thông dâm với em của Lỗ Trang công là công tử Khánh Phủ. Hai người bàn nhau lập con của em Ai Khương (Thúc Khương) là công tử Khải lên ngôi, do đó Khánh Phủ dự định giết Cơ Ban.

Cơ Ban vừa lên ngôi được 2 tháng thì bị chú là công tử Khánh Phủ sai một người tên là Lạc giết chết tại nhà mẹ đẻ là Mạnh Nhâm. Cơ Khải được lập, tức là Lỗ Mẫn công.

Khánh Phủ làm phụ chính, một người em khác của Lỗ Trang công là công tử Quý Hữu vốn ủng hộ lập công tử Ban phải chạy sang nước Trần.

Khánh Phủ muốn tự mình làm vua, lại bàn với Ai Khương muốn cướp ngôi của Mẫn công. Ai Khương đồng tình. Năm 660 TCN, Khánh Phủ sai thủ hạ là Bốc Kỳ mang quân tập kích giết chết Lỗ Mẫn công tại cửa cung.

Công tử Quý Hữu nghe tin, vội từ nước Trần trở về nước Lỗ, đón công tử Thân chạy sang nhà Chu bá cáo và cầu cứu.

Khánh Phủ tuy giết được Mẫn công nhưng bị người trong nước căm ghét và muốn giết, nên sợ hãi cùng Ai Khương bỏ chạy sang nước Cừ.

Nước Cử đuổi công tử Khánh Phủ không dung nạp. Quý Hữu trở về nước. Khánh Phủ nhờ công tử Ngư nước Lỗ xin hộ cho về nước, nhưng Quý Hữu không thuận. Khánh Phủ cùng đường phải thắt cổ tự vẫn.
Năm 660 TCN chú Ai Khương là Tề Hoàn công đang làm bá chủ chư hầu, nghe tin Ai Khương đồng mưu với Khánh Phủ làm loạn nước Lỗ, bèn gọi Ai Khương về nước Tề và giết chết.

Ai Khương hoạt động trong khoảng gần 30 năm, không rõ bao nhiêu tuổi.

Thúc Khương em gái của Ai Khương, con của Tề Tương công. Nàng cùng chị đều lấy Lỗ Trang công. Nàng là mẹ của Công tử Khải

Phong thị, không rõ tên nàng là gì chỉ biết nàng là thê tử của Lỗ Trang công và là mẹ của Công tử Thân

Vương Cơ Công chúa người triều Châu được Tề Tương công xin hỏi cưới.

Xuân Thu- Chién Quốc

28. Tức Vĩ

Tức Vĩ (hay còn gọi là Tức Quy) vốn là là con gái nước Trần sống vào thời Xuân Thu, nhan sắc tuyệt vời. Nàng và chị gái là Sái Quy vốn không biết cha mẹ mình là ai. Nàng cùng với chị được gả đến hai nước Tức và Sái (Thái). Khi lấy Tức hầu, nàng được gọi là Tức phu nhân, sau là Văn phu nhân, sau là Văn quý nhân rồi Văn Vương phi. Tương truyền Tức Vĩ má tựa hoa đào nên nhân gian thường nàng gọi là “Đào hoa phu nhân”. Sau này, vì Sở Văn vương vì ham mê sắc đẹp của nàng nên đã đem quân qua đánh nước Tức rồi cướp nàng về làm phu nhân. Đến nay câu chuyện về nàng không còn nhiều nữa, song câu chuyện vì tình sống qua ngày của nàng vẫn còn được lưu truyền và trở thành một giai thoại.

Các nước chư hầu thời Xuân Thu là các nước tự trị vẫn thường hay tấm công thôn tính lẫn nhau hòng xưng bá thiên hạ. Vậy nên vùng Trung Nguyên rộng lớn không ngày nào là không nghe thấy tiếng vó ngựa, khói bay mịt mù, đao quang kiếm ảnh khiến dân chúng rơi vào cảnh khốn cùng. Từ sau “trận thành Bộc” của nước Tấn- Sở mới hình thành ranh giới nam- bắc. Các nước nhỏ không dựa vào nước Tấn thì theo Sở và ngược lại. Nói chung, họ đều phải dựa vào hai nước này để có thể sinh tồn.

Vì sự sinh tồn ấy nên giữa các nước thường hay lục đục nhau. Chuyện hợp- tan giữa hai bên trở thành chuyện thường tình. Một số nước chỉ vì những chuyện rất nhỏ nhặt song lại chấp nhặt với nhau lấy đó làm cớ để gây xích mích, phát động chiến tranh, trở thành kẻ thù của nhau chỉ trong chốc lát. Câu chuyện của Sái Hầu và tức hầu là một mình chứng cụ thể cho chuyện này mà người chịu nhiều đau khổ nhất và phải hy sinh nhiều nhất chính là nàng Tức Vĩ có đôi má tựa hoa đào.

Sái hầu và Tức hầu đều lấy con gái nước Trần về làm vợ. Hai người con gái này xinh đẹp vô cùng. Một người mang vẻ chim sa cá lặn. Một người mang vẻ hoa nhường nguyệt thẹn. Cả hai quả là những trang mỹ nhân tuyệt sắc diễm lệ, không ai là không biết đến. Theo quy đinh hôn nhân thời bấy giờ, khi vợ của quốc vương hoặc đại phu xuất giá theo chồng, em gái của vợ cũng phải đi theo để phụ dâu, gọi là “em dâu”, còn nếu là các nữ tì gọi là “phù dâu”, gọi chung là “em phù dâu”. Vợ của Sái hầu và Tức hầu vốn là chị em họ, vốn Sái hầu có thể một công đôi việc nhưng do nhầm lẫn nên đã đem cái lợi ấy cho Tức hầu. Điều này khiến Sái hầu luôn canh cánh trong lòng.

Sau này, khi Tức Vĩ lúc này đã trở thành Tức phu nhân về nước Trần thăn cha mẹ có đi ngang quá nước Sái. Sái hầu lại vì dục vọng thì nhiều mà tình hữu nghị thì ít nên đã lệnh cho người sắp xếp tiệc rượu, tiếp đãi nàng rất nồng hậu. Lúc bắt đầu buổi tiệc, Sái hầu còn giữ lễ chủ- khách nhưng sau khi thấm say, ông bắt đầu có những lời lẽ buông tuồng, đùa vui và không đúng với thân phận. Không những vậy Sái hầu còn nắm lấy đôi tay của Tức phu nhân. Nàng vì sự tôn nghiêm của quốc vương phu nhân một nước nên bèn phủi tay áo đứng lên và nhanh chóng rời khỏi nước Sái.

Tức hầu biết chuyện cho rằng Sái hầu ức hiếp người quá đáng, không nhịn được và hạ quyết tâm nhất định phải tìm cơ hội báo thù nước Saia. Thế nhưng nghĩ là một chuyện, làm lại là chuyện khác. Nước Tức vốn là nước nhỏ, quân lực yếu vốn không phải là đối thủ của nước Sái. Hơn nữa vô duyên vô cớ xuất binh sẽ không được lòng binh sĩ. Vậy nên Tức hầu bèn “mượn dao giết người”. Ông tìm cách vu cáo Sái hầu không phục Sở, và xin Sở Văn Vương mang quân mượn cớ đánh Tức rồi hợp lực diệt Sái. Ông cho sứ giả đến nước Sở để cống nạp đồng thời bàn mưu với Sở Văn vương:

_ Nước Sái dựa vào tình hữu nghị với nước Tề nên không phục nước Sở. Nếu như nước Sở khởi binh đánh nước Tức, Tức hầu sẽ cầu cứu nước Sái. Sái hầu sẽ nghĩ đến tình anh em với Tức hầu mà xuất binh giúp đỡ. Sau đó nước Tức và nước Sở sẽ liên kết đánh nước Sái, tất sẽ bắt sống được Sái hầu. Vừa bắt được Sái hầu, lại không sợ rằng nước Sái sẽ không cống nạp cho Sở.

Sở Văn vương thấy kế hoạch rõ ràng như vậy rất vừa ý bèn chọn ngày đem quân tiến đánh nước Tức. Tức hầu giả vờ hoang mang, lúng túng đấn cầu cứu nước Sái quả nhiên Sái hầu đích thân dẫn quân đến ứng cứu. Song, khi doanh trại chưa ổn định, quân Sở và quân Tức đã bao vây bốn phía tiến đánh quân Sái. Trong đêm tối, Sái hầu hốt hoảng phá vòng vây chạy đến Tức thành nhưng Tức hầu lại đóng chặt cửa. Sái hầu không còn đường thoát nên bị nước Sở bắt làm tù binh. Lúc này Sái hầu mới biết mình đã trúng kế của Tức hầu nhưng đã quá muộn.

Sái hầu bị bắt về nước Sở làm tù binh nên hận Tức hầu tới tận xương tủy. Bên cạnh đó, ông cũng phỉ báng Sở vương vô duyên vô cớ xuất binh. Sở Văn vương tức giận hạ lệnh giết Sái hầu để cúng tế Thái miếu. Song đại trung thần Dục Quyền đã can ngăn và dùng mọi lý lẽ để Sở Văn vương giữ lại mạng sống cho Sái hầu. Bởi nếu giết Sái hầu, sẽ khiến cho các nước run sợ đi cầu cạnh các nước hác để bảo vệ mình, có thể xảy ra cục diện các nước liên minh lại với nhau để chống lại Sở. Như vậy, kế hoạch bắc tiến của Sở sẽ gặp phải không ít khó khăn. Dục Quyền sau một hồi khuyên giải mới xoa dịu được cơn giận của Sở vương và cứu được mạng của Sái hầu.

Sái hầu sau khi thoát chết mới bình tỉnh suy nghĩ kỹ mọi việc và thấy rằng ngọn nguồn mọi chuyện đều do Tức Quy mà ra nên bèn nghĩ kế nịnh nọt Sở Văn vương:

_ Thiên hạ tuyệt thế mỹ sắc đều ở trong cung của đại vương rồi! Nhưng vẫn chưa có một ai có thể sánh được với sắc đẹp của phu nhân Quỳ thị của Tức hầu.

Kế “mượn dao giết người” đã biến Sái hầu trở thành phạm nhân của nước Sở. Nay Sái hầu lại áp dụng kế này để diệt nước Tức. Sở Văn vương nghe thấy Sái hầu nói vậy lại đông lòng sắc dục, ý muốn chiếm hữu dâng lên mạnh mẽ nên đã hỏi Sái hầu phải làm thế nào mới chiếm được người đẹp. Sái hầu nhân đó “chỉ vẽ” vào.

Sở Văn vương lấy cớ đi tuần sát, thực sự là muốn Tức hầu mở yến tiệc. Trong bữa tiệc Sở Văn vương nói:

_ Trước kia ta cũng có chút ít công lao với Quý phu nhân, nay ta tới đây, chả lẽ Quý phu nhân lại không mời ta một ly rượu sao?

Tức hầu sợ oai phải cho người vào cung mời Tức Vĩ ra. Tức Vĩ quần áo tha thướt, chân ngọc rung kêu nhịp nhàng, bước ra sụp lạy Sở Văn Vương. Vua Sở đứng dậy đáp lễ. Tức Vĩ lấy chén ngọc rót đầy rượu, màu da tay và màu chén ngọc không phân biệt được. Vua Sở định giơ tay ra đỡ, nhưng Tức Vĩ lại sai cung nhân bưng rượu đến dâng vua Sở. Vua Sở uống một hơi hết ngay, nhìn ra thì đã thấy Tức Vĩ vái lạy và lui vào cung.

Hôm sau, vua Sở mở tiệc mời Tức Hầu. Nửa chừng tiệc, vua Sở bảo Tức Hầu:

_ Ngày trước quân Sở đã giúp phu nhân, nay quân Sở qua quý quốc, chả nhẽ phu nhân lại không khao thưởng họ một chút ư?

Tức hầu nói:

_ Nước tôi nhỏ bé, của cải ít ỏi, khó lòng khao nổi đại quân. Xin cho chúng tôi về bàn bạc.

Sở Văn Vương đập bàn quát lớn:

_ Kẻ thất phu này vong ơn bội nghĩa. Võ sĩ đâu bắt trói lại cho ta.

Quân Sở xô lại trói Tức hầu, vào cung bắt Tức Vĩ. Nàng nghe tin Tức hầu bị quân Sở bắt, bèn thở dài:

_ Rước hùm sói vào nhà còn nói sao được?

Nói xong, định chạy ra vườn đâm đầu xuống giếng tự vẫn. Tướng Sở là Đấu Đan, vội vàng chạy theo nắm vạt áo Tức Vĩ ngăn lại rồi nói:

_ Phu nhân không muốn cho Tức hầu toàn vẹn tính mạng hay sao?

Tức Vĩ nín lặng. Đấu Đan đưa tới chỗ vua Sở. Sở Văn Vương khuyên nàng nếu muốn cho Tức hầu toàn mạng thì nên về Sở. Sau đó phong cho chức Sở phu nhân. Nàng nhập cung Sở được Sở Văn Vương sủng ái vô cùng. Trong ba năm Tức Vĩ sinh được 2 người con với vua Sở là Hùng Gian và Hùng Uẩn. Song từ khi nhập cung, nàng luôn ủ rũ mặt mày, không nở lấy một nụ cười khiến Sở Văn vương rất bồn chồn, bắt nàng phải nói rõ nguyên nhân. Tức Vĩ không còn cách nào khác bèn nhỏ lệ rồi nói:

_ Thần thiếp phải thờ hai chồng, đã không biết giữ tiết thì còn mặt mũi nào mà chuyện trò với ai.

Sở Văn Vương nói:

_ Việc này cũng bởi Sái hầu trước kia giới thiệu phu nhân cho ta, nên ngày nay mới sanh ra thảm cảnh này. Ta sẽ vì phu nhân đem quân đến bắt Sái hầu đền tội.

Chớp mắt đã qua mùa thu, hoa quế đã đưa hương, Sở Văn vương vui mừng đi săn dự định là sau hai, ba ngày mới hồi cung. Tức Vĩ nhân cơ hội lén trốn ra noài thành gặp lại chồng cũ. Cả hai người gặp nhau giống như mấy đời chưa gặp lại. Nàng vừa khóc vừa nói:

_ Thiếp ở trong Sở cung, phải nhịn nhục để sống qua ngày, trước là để bảo toàn tính mạnh của đại vương, để sau này có thể gặp lại đại vương, bây giờ thiếp đã thỏa tâm nguyện rồi, chết cũng nhắm mắt.

Nghe Tức Vĩ nói vậy, Tức hầu đau lòng khôn xiết, ông bèn khuyên nàng:

_ Trời xanh vẫn còn có mắt, phu thê ta cũng có ngày gặp lại, ta thà làm chức quan giữ thành nhỏ nhoi này, cũng chính là chờ đợi cơ hội gặp lại.

Tức Vĩ cho rằng những ngày tháng sau này sống thật không bằng chết, chi bằng chấm dứt kiếp khổ sở tại đây. Vậy nên nàng bèn đâm đầu vào tường thành khiến Tức hầu không kịp trở tay. Nhìn thấy người vợ yêu dấu chết ngay trước mặt mình, Tức hầu kêu khóc thảm thiết, ngay lập tức trở nên thất vọng. Và để báo đáp lại mối thâm tình của Tức Vĩ, ông cũng đâm vào tường mà chết theo.

Sở Văn vương sau khi đi săn về biết chuyện, ông trở nên chán nản. Cảm động trước mối tình của hai người, ông hạ lệnh cho chư hầu tổ chức nghi lễ để mai táng cho Tức hầu vào tức Vĩ trên núi Đào Hoa ngoài thành Hán Dương. Người đời sau dựng miếu thờ dưới chân núi, quanh năm thờ cúng gọi là “Đào Hoa phu nhân miếu”

Đỗ Mục, thi sĩ thời Đường khi đi ngang qua Hán Dương đã đến miếu và viết thơ:

“Tế yêu cung lý lộ đào tân,
Mạch mạch vô ngôn kỷ độ xuân;
Chí cánh tức vong duyên để sự
Khả liên Kim Cốc trụy lâu nhân.
Tức vong thân nhập Sở vương gia,
Hồi khán xuân phong nhất diện hoa;
Cảm cựu bất ngôn thưởng yểm lệ,
Chỉ ứng phiên hận hữu vinh hoa.”

Cái chết của Tức Vĩ đã trở thành một giai thoại. Chuyện tình của nàng và tức hầu cũng đã trở thành một câu chuyện đẹp nhưng lại buồn thương. Và vì câu chuyện bi thương này nàng đã được lưu tên trong quyển “Liệt nữ truyện”. Song thực tế, nhân gian đã thêu hoa cho cái kết của nàng. Nếu theo đúng lịch sử, nàng không hề tự tử chết. Tuy nhiên, nguyên nhân dẫn đến cái hết của nàng đến nay vẫn chưa được làn sáng tỏ. Có lẽ vì lý do này nên người đời sau đã mặc sức tưởng tượng và tô điểm cho cuộc đời vốn truân chuyên của nàng.

Năm 675 TCN, Sở Văn vương sau khi đánh bại nước Hoàng thì bị bệnh và mất vào tháng 6 năm đó. Con trưởng của Văn vương với nàng là Hùng Gian lên nối ngôi (Sở Đổ Ngao). Tuy nhiên ba năm sau, Đổ Ngao bị em là Hùng Uẩn giết chết để cướp ngôi, tức Sở Thành vương. Do Sở Thành vương còn nhỏ, nên triều chính do em Văn vương là Tử Nguyên quyết định.

Năm 666 TCN, Tử Nguyên ham mê sắc đẹp của Tức Quy, bèn cho xây một ngôi nhà bên cạnh, ngày đêm vũ nhạc múa hát, Tức Quy thấy thế, không bằng lòng, bảo:_ Tiên quân ta (Sở Văn vương) ngày xưa chăm lo luyện tập binh sĩ, làm cho chư hầu đều thần phục. Bây giờ quân Sở ta đã mười năm nay, chưa tiến được Trung Nguyên, thế mà quan Tể tướng không nghĩ những điều xấu hổ ấy lại bày việc đờn ca, hát xướng bên cung gái góa nầy, thật lạ lùng làm sao !

Tử Nguyên xấu hổ, năm 664 TCN bèn đem quân đánh nước Trịnh, nhưng quân Tống đến cứu nên phải rút lui. Không bao lâu sau, Tử Nguyên bị Đấu Ban giết chết.

Về sau không rõ Tức Quy mất năm nào.

Sái phu nhân (Sái Quy) chị gái của Tức Quy. Nàng là vợ của Sái hầu.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN