Tuổi Thơ Dữ Dội - Chương 24: Phần thứ bảy (8)
× Để đọc chương tiếp theo ấn vào nút (DS Chương) để chọn chương cần đọc hoặc ấn vào Chương Tiếp / Tiếp ở trên và phía dưới cùng trang.    

trước tiếp
101


Tuổi Thơ Dữ Dội


Chương 24: Phần thứ bảy (8)


9

Buổi trưa. Đội trưởng Thắng đang tắm giặt dưới sông Ô Lâu. Anh cũng chỉ có độc một bộ áo quần.

Trước khi tắm, anh giặt bộ áo quần phơi lên cành cây. Tắm xong, trần như
nhộng, anh trèo lên tảng đá khuất sau bụi lau sậy ngồi co ro chờ áo quần khô. Thân hình gày còm nhom của anh cũng lấm tấm ghẻ ruồi.

Mừng từ trên bờ dốc hộc tốc chạy xuống bến, nhìn quanh quất gọi to:

– Anh Thắng ơi. Anh Thắng?

– Cái chi đó, Mừng?

Nhìn thấy bộ áo quần phơi trên cành cây, Mừng biết là đội trưởng đang “cuổng trời” nên chỉ đứng bên này bụi lau sậy, báo cáo với sang:

– Anh lên ngay, có khách dưới Huế lên tìm anh.

– Khách dưới Huế à? Lạ quá hè? Em có bỉết là ai không?

– Dạ hai người, một mệ, một o. Mệ thì già, răng đen, còn o thì trẻ chỉ
bằng chị Quýt bào chế, nước da trắng bóc, tóc kẹp, đi dép xăng-đan, mặc
bộ áo quần đẹp lắm. Hai người xách hai cái bị chi to lắm!

– Chừ họ mô rồi?

– Họ đang trên đường đi đến chỗ đội mình. Một anh ở ngoài trạm gác dắt họ đi. Em chạy trước về báo cho anh biết, cả sợ lúc họ vô anh đang cởi áo
bắt rận thì ôốc dôộc(1), lắm?

– Em chạy lên trước đi rồi anh lên ngay.

Mừng chạy về đến lán thì lính gác trạm tiền tiêu Xê-ca đeo khẩu súng mút-cơ-tông, dẫn hai người khách phụ nữ, bước vào san.

– Có anh Thắng ở nhà không em?

– Dạ có… Anh đang… – Mừng định nói tắm dưới sông – nghĩ thế nào em lại
nói… ra công tác ngoài mấy trận địa bắn máy bay. Anh sắp về chừ…

– Có hai chị ni ở dưới Huế lên cần gặp đội trưởng của chú – Anh lính gác
quay sang nói với hai phụ nữ đứng khép nép sau lưng. – Mời thím và o vô
trong nhà đợi. Chút nữa anh ấy sẽ về.

– Thím ạ… Chị ạ… – Mừng lễ phép chào hại người rồi dẫn họ vào lán.

Hai người phụ nữ Huế đứng ngây người nhìn ngôi lán trống trơn với hai dãy
sạp nứa bụi mọt rơi trắng xoá, những chiếc bao tải còn đen hơn cả giẻ
lau nhà, được gấp cẩn thận, nằm một dãy sát phên mà họ không biết ở đây
người ta dùng để làm gì. Rồi họ nhìn Mừng áo quần rách tả tơi, ghẻ lở
đến tận cổ, nước da vàng ệch, hai ống chân như hai ống quyển, đứng xa họ cả chục bước vẫn ngửi thấy mùi tanh tanh… Họ chưa bao giờ được nhìn
thấy một cảnh sống cực khổ đến như vậy!

– Thím với chị để tạm bị lên sạp cả nặng. – Mừng vẫn đứng cách xa họ, rụt rè nói.

Người đàn bà răng đen hỏi:

– Chớ em cũng là bộ đội Việt Minh à?

– Dạ… Chúng em là Vệ Quốc Đoàn… Mới đổi tên là Quân đội nhân dân Việt Nam…

– Rứa em có biết em Thân Trọng Quỳnh, cũng nhỏ nhỏ cỡ bằng em?

– Có phải trước tê Quỳnh ở cái nhà lậu thiệt to dưới Vĩ Dạ không ạ?

– Phải, đúng rồi… Nhà cụ Tuần Vi.

Rứa thì bạn Quỳnh ở cùng đội với em. Bạn ấy bị sốt rét nặng nên cả tháng nay đang nằm trong bệnh viện.

Vừa lúc đó đội trưởng bước vào, áo quần anh mặc vẫn còn ướt nhưng đầu tóc được chải khá cẩn thận.

– Dạ thưa anh, hai chị em tui là người nhà của em Thân Trọng Quỳnh –
Người đàn bà răng đen nói với anh Thắng. – Cụ Tuần Vi là cha em, sai chị em tui lên đây mang thư của cụ gửi cho cấp chỉ huy của bộ đội…

Chị mở kim băng túi áo lấy ra cái phong bì được gấp nhỏ, cầm đưa cho anh Thắng bằng hai tay, rất cung kính.

Có hai bức thư trong phong bì, một bức thư chữ đánh máy và bức thư viết tay. Anh Thắng đọc bức thư đánh máy trước.

”Huế, ngày… tháng… năm 1947.

Kính gửi Ngài Chỉ huy cao cấp Quân đội Việt Minh tỉnh Thừa Thiên.

Tôi là Thân Trọng Vy, nguyên Tuần phủ cũ. Nay tôi lại được chánh phủ Nam
Triều triệu ra nhận chức Phó tổng trấn Trung kỳ. Nhưng việc hôm nay tôi
muốn đệ trình lên ngài là việc riêng của gia đình tôi. Cháu Thân Trọng
Quỳnh là con trai út và độc nhất của vợ chồng chúng tôi. Năm nay cháu
vừa tròn mười ba tuổi. Vì sự bồng bột non dạ của tuổi thiếu niên, cháu
Quỳnh đã trốn nhà theo bộ đội của các Ngài từ trước ngày Mặt trận Huế.
Nay tôi tha thiết đệ trình lên Ngài, vì lòng nhân đạo, xin Ngài cho cháu Quỳnh được trở về với gia đình, để cháu được tiếp tục đi học và chữa
bệnh. Kính mong Ngài chấp nhận cho tôi lời đệ trình khẩn thiết của vợ
chồng chúng tôi. Hai phụ nữ mang thơ này là người nhà gia đình chúng
tôi, nếu lời đệ trình được Ngài chấp nhận, xin Ngài cho cháu cùng về
theo.

Gọi là chút lễ mọn tri ân, vợ chồng chúng tôi xin kính biếu
Ngài và đồng sự một số thuốc Tây chữa bệnh, thuốc bổ và một số vật dụng
cá nhân khác. Kính mong Ngài vui lòng chấp nhận.

Kính cáo Thân Trọng Vy ký tên”

Anh Thắng đọc tiếp bức thư viết tay:

”Quỳnh con ơi!

Từ ngày con bỏ nhà đi, ba mạ, các chị con ngày đêm thương khóc. Mạ gày mòn héo hắt vì thương nhớ con, không biết con còn sông hay chết. Không đêm
mô mạ không nằm mê thấy con về ngồi ở đầu giường mạ. Bất ngờ cách đây ít lâu, do tình cờ mà mạ được biết con còn sông và đang ở “trên nớ”(2). Mạ lại được nghe nói con đau ốm bệnh chi nặng lắm, không đi lại được phải
nằm một chỗ. Ba mạ nghe tin càng đứt ruột héo gan. Ba con đã viết thơ đệ trình lên Ngài chỉ huy cao cấp của Việt Minh Thừa Thiên xin cho con
được trở về với gia đình. Ba con cũng đã đánh thơ cho chú ruột con hiện
đang công cán bên nước Thuy Sĩ, nếu con về nhà thì ba sẽ gửi con sang
bên đó để con chữa cho lành bệnh và học hành cho đến lúc thành tài.

Chú con cũng đã có thơ phúc đáp, rằng ngày đêm mong chờ con qua để chú cháu được gặp gỡ, đoàn tụ. Biết tánh con thích nhạc, thích đàn, nên chú con
đã mua sẵn cho con một cái đàn pi-a-nô nhãn hiệu Ý với giá mấy chục
lượng vàng, để sẵn ở đó, chờ con qua, con chơi. Mạ gởi kèm theo đây cho
thím Ba và chị Hường mang lên cho con ít đồ ăn, áo, mền, thuốc, con ưng
để dùng hoặc con biếu cá bạn của con thì tùy ý con.

Ba mạ, các chị con ngày đêm đỏ mắt mong con trở về.

Mạ của con ký tên”

Đọc xong hai bức thơ, đội trưởng ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói với hai người khách:

– Tôi là đội trưởng của em Quỳnh, nhưng việc này phải do cấp trên của
chúng tôi giải quyết, đồng thời cũng phải hỏi ý kiến của em Quỳnh có
muốn về với gia đình hay không. Vậy thím với chị cứ nghỉ tạm ở đây, để
tôi đi gặp cấp trên báo cáo lại Anh quay sang nói với Mừng:

– Em ở nhà tiếp thím với chị đây. Anh vô Xê-ca Một có việc.

Chú thích:

(1) Xấu hổ.

(2) Trên ấy – Đồng bào vùng giặc tạm chiếm gọi lóng chiến khu.

10

Xê-ca Bảy, nơi bệnh viện chiến khu đóng, có khoảng chục cái lán tranh. Sáu
ngôi lán dài một mái, là chỗ nằm của bệnh nhân. Bốn cái nhà tranh mái lá phòng khám, phòng mố, phòng điều trị và chỗ ăn ở của bác sĩ, y tá, hộ
lý. Tất cả nằm rải rác thành hình vòng cung men theo sườn ngọn núi mà
trong bản đồ quân sự được ghi là đỉnh 96, náu kín dưới những tán cây
rừng đại thụ. Một con đường mòn nối liền các lán, trại.

Từ mỗi ngôi
lán có lối đi đánh thành bậc xuống con suồl khá lớn chảy vòng dưới chân
núi, để bệnh nhân xuống suối tắm giặt, rửa ráy. Trước khu nhà hai mái có một khoảng trống rộng chừng bốn chiếc chiếu đôi. Chính giữa khoảng
trống có căng một tấm vảì màn trắng, bốn góc buộc vào bốn cái cọc, ở
giữa hơi võng xuống, nhìn giống cái vó tay dựng phơi. Dưới đáy vó đặt
cái chậu nhôm kê cao trên tảng đá. Cái vó màn này là dụng cụ hứng nước
trời thay cho nước cất, để hoà thuốc uống, thuốc tiêm.

Bệnh viện
trưởng là bác sĩ Lê Khắc Thiền tốt nghiệp Y khoa ở Pháp, một người thầy
thuốc nổi tiếng mê thơ và sành thơ. Ông có bài thơ “Hồn nhiên” in trong
tuyển tập thơ kháng chiến của Hội Văn nghệ Việt Nam xuất bản năm 1949.

Hôm các em ở đội Thiếu niên Trinh sát đưa Quỳnh vào bệnh viện, bác sĩ Thiền đang ăn cơm. Ông bỏ dở bữa ăn đi ra đón em và sai đưa em vào phòng
khám. Ông ngồi xuống cạnh em, đưa bàn tay có những ngón tay dài và mềm
mại đặc biệt của một bác sĩ phẫu thuật. Vuốt mái tóc tơ bù rối của em và ngắm nhìn gương mặt em rất lâu. Ông nâng cằm em lên, nhìn sâu vào đôi
mắt to mênh mông của Quỳnh đang âm ỉ lửa sốt, rồi chợt hỏi như chưa thật tin lắm cái điều mình đã được biết:

– Chính chú mình đã viết bài hát “Sông Ô Lâu kháng chiến”?

– Dạ…

– Cả nhạc và cả lời?

– Dạ. Bài hát của em còn cái “pờ-rề-luýt” nữa nhưng em chưa kịp viết vào. – Quỳnh vung tay đánh nhịp và khẽ ngân nga khúc dạo đầu bài.

Ông chăm chú lắng nghe, mỉm cười nói:

– Bài hát của chú mình đã làm cho tôi khóc đó nghe?…

Ông bế em đặt lên giường khám và làm bằng những khúc thân cây để nguyên cả
vỏ, và lát bằng tre lồ ô đập dập. Trời! Em nhẹ bỗng đến ngạc nhiên,
tưởng chừng như không phải làm bằng xương thịt mà bằng một chất liệu gì
đó hết sức mỏng manh, hết sức dễ vỡ. Một nỗi thương xót trào lên, nghẹn
cổ ông. Ông cầm bàn chân sưng tấy của em, nâng lên ngắm nghía, trán ông
hơi cau lại vì lo lắng. Ông âu yếm nói:

– Chú mình cứ nằm yên nghe,
đợi anh mấy phút. Rồi anh sẽ chữa cho chú mình lành bệnh. Rồi chú mình
sẽ tha hồ mà viết những bài hát mới…

Ông trở lại lán, ăn nốt chén cơm với nước ruốc. Những tứ thơ mới lên men trong đầu ông: “Cuộc kháng
chiến thần thánh của đất nước đã làm nảy sinh biết bao điều kỳ diệu? Nó
giống như quặng mỏ kim loại quý với một trữ lượng vô tận, bấy lâu nằm
sâu ẩn kín dưới các tầng đất, bỗng được mũi khoan của kháng chiến chạm
phải, phát hiện, làm giàu sang cho nòi giống Biết bao nhiêu thiếu niên
đã sống và chết như những bậc anh hùng cái thế Và chắc cũng không hiếm
những chú bé hoá thành nghệ sĩ cách mạng như chú bé bệnh nhân của tôi?“.

Vừa chan nước ruốc đỏ lòm những ớt vào bát cơm gạo mục, ông bác sĩ bệnh
viện trưởng chiến khu vừa khẽ ngâm nga một câu trong bài hát của Quỳnh:

”Sông Ô Lâu ngân nga hát vang.

Chảy xuyên qua cuộc kháng chiến trường kỳ…“.

Bưng bát cơm lên miệng và, ông vẫn không thôi nắc nỏm:

– Lạ thật! Một chú nhóc mười ba tuổi mà viết nổi một câu hát như thế. Lạ thật!

Cũng như hồi ở trạm quân y của mặt trận khu C. Quỳnh trở thành con cưng của
cả bệnh viện chiến khu. Từ bác sĩ bệnh viện trưởng đến y sĩ, y tá, hộ
lý, đến bệnh nhân, đều yêu em và đối xử với em như con đẻ, như em ruột.

Những hôm em dịu cơn sốt, cái chân bớt đau nhức, em tha thẩn đi đến các lán
trong khu bệnh viện. Em dạy cho họ hát bài “Sông Ô Lâu kháng chiến” của
em và hát cho họ nghe những bài hát mà họ yêu cầu. Em vừa có năng khiếu
âm nhạc tuyệt vời lại vừa rất khéo tay. Chỉ cần mày mò một lúc là em đã
có thể biến những đồ vật tầm thường, bỏ đi, tìm thấy trong các lán trại
thành nhạc cụ. Em xếp những ống nứa những ống tre lồ ô dài ngắn, to nhỏ
khác nhau, hoặc những cái chén ăn cơm, những chai lọ không, đổ vào đó
những mực nước khác nhau, và dùng chiếc đũa, cái muỗng sắt hoặc con dao
cùn mẻ, gõ nhịp nhàng lên những vật đó, thế là tất cả hoá thành âm nhạc. Thế là ngôi lán tràn ngập những giai điệu hùng tráng, du dương, êm dịu… của những bài hát họ quen thuộc. Họ chen chúc, xúm xít quanh em, mắt
không chớp, như bị hai bàn tay em thôi miên. Những gương mặt chiến sĩ
vàng võ vì bệnh tật, đói khát, phút chốc rạng rỡ lên vì niềm vui của sự
ngạc nhiên, thán phục. Cuộc sống gian khổ. Thiếu thốn kinh người của
hoàn cảnh bệnh viện chiến khu ngày đó, từ khi có em, bỗng vơi nhẹ bớt.
Tiếng rên la, cáu gắt ở các lán bệnh nhân ngày một giảm và thay vào đó
là tiếng hát, tỉếng cười, ngày một nhiều hơn, bác sĩ Thiền gọi đùa em là “Chính uỷ của bệnh viện“.

Có lần bác sĩ Thiền vào thăm lán năm, một
lán toàn những bệnh nhân nặng. Ông bắt gặp Quỳnh đang đứng trên sạp nứa
bắt nhịp cho các anh chị bệnh nhân, người nằm, người ngồi, người dựa
cột, dựa phên tập hát bài “Không quân Việt Nam”(1), đúng vào cái câu: “
Ta là đàn chim bay trên cao xanh… “.

Em dạy hát kiên nhẫn không thua
gì mấy ông giáo già dạy trẻ con học vỡ lòng. Em bắt các anh các chị dừng lại nhiều lần, em hát làm mẫu rồi bắt họ tập hát lại những câu hát sau. Một lần, hai lần, bốn năm sáu lần… Mấy bệnh nhân có tiếng là khó tính,
bướng bỉnh nhất lán đều răm rắp nghe em chỉ vẽ, ngoan ngoãn như những
chú học trò nhỏ. Em gõ lên bộ đàn chai tự tạo hoà theo giọng hát của họ
làm cho tất cả hào hứng say sưa tập.

Bác sĩ Thiền dừng lại trước cừa
lán, đắm chìm trong những giai điệu hùng tráng mang ý nghĩa tiên tri,
báo hiệu, ngợi ca một quân chủng của quân đội cách mạng tương lai và gợi lên niềm mong ước lớn lao về sức mạnh của Nhân dân – Đất nước, được một em bé lĩnh xướng và điều khiển bắt nhịp. Ông ngắm nhìn những tấm thân
gày gò, ghẻ lở, che phủ những bộ quần áo rách như tổ đỉa, những gương
mặt võ vàng, xanh lét ủ đầy bệnh của các chiến sĩ bệnh nhân, tràn trề
niềm phấn khích cách mạng. Lời hát hừng hực khí phách, tràn đầy chất thơ hào hùng như đang toả sáng trên gương mặt họ, như đang nâng bổng họ bay lên bầu trời mộng tưởng… “Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng… “.

Ông thấy người mình nổi hết gai ốc, và cặp mắt ông nhoà. Về sau này, nhiều
năm tháng đã trôi qua, bác sĩ Lê Khắc Thiền râu tóc đã bạc phơ, vẫn còn
hay nhắc lại chuyện này. Ông xúc động nói: “Lúc đó tôi vụt thấy núi rừng chiến khu, cuộc sống bi tráng của năm đầu kháng chiến, các chiến thương sắp ngã gục và không bao giờ còn đứng lên được nữa vì thiếu thuốc men
và đói khát, em bé nhạc trưởng bắt nhịp hát với hai cánh tay trần mảnh
như que diêm, và ca khúc không quân Việt Nam cánh bay rợp trời…” đã hoà
nhập làm một. Đó là một trong những hình ảnh tráng lệ nhất của Tổ quốc
lâm trận, mà đời tôi may mắn được chứng kiến“.

Hơn một tuần vừa qua,
Quỳnh vắng mặt ở các lán. Em bỗng dưng lên cơn sốt liên miên, phải nằm
liệt trên sàn. Vết thương cũ dưới gan bàn chân tái phát nặng, sưng tấy,
nóng ran. Em không ăn được, mỗi bữa phải gắng lắm em mới nuốt được vài
muỗng cháo loãng. Bác sĩ Thiền vô cùng lo ngại. Ông lật nhìn mi mắt em,
nhìn lưỡi, bàn chân tấy đỏ, nhìn bát cháo gạo luễnh loãng với mấy con
tôm khô kho mặn chát để ở đầu giường mà em chỉ ăn được vài muỗng rồi bỏ
dở… Gương mặt ông vụt tối lại như có một mảng bóng râm lướt qua. Ông ứa
nước mắt vì thương xót, bất lực. Tâm trạng ông lúc này giống tâm trạng
một tráng sĩ dư sức đánh bại một kẻ thù, nhưng có nguy cơ bị kẻ thù hạ
thủ chỉ vì trong tay thiếu một lưỡi gươm – dù chỉ là một lưỡi gươm cùn.
Mỗi lần di xuống lán thăm bệnh cho em, ông lại lắc lắc đầu, lẩm bẩm:“Giá được cho chú ta mỗi ngày vài ly sữa, một ít thuốc kháng sinh thì
đâu đến nỗi…“.

Nhưng trong tay ông lúc này chỉ có cháo gạo loãng, mấy con tôm khô kho mặn chát một ít thuốc ký ninh, viên sắt, long não…

Chỗ nằm của Quỳnh trước đây ở giữa lán. Một bệnh nhân nằm cuối lán, sát
phên đầu hồi, ra viện. Em xin bác sĩ chuyển chỗ nằm đến đây. Em tẩn mẩn
tự tay khoét phên lán thành một khuôn cừa sổ nhỏ bằng bốn bàn tay, ngang tầm với đầu nằm. Em có thể nằm mà ngắm một khoảnh rừng núi qua cái
khung cửa sổ tí xíu này. Những lúc dứt cơn sốt rét, em thường nằm
nghiêng, úp gương mặt xanh xao vào khuôn cửa sổ mắt mở to ngắm nhìn cái
dốc núi thoai thoải, mặt đất phủ đầy lá rụng và dây leo, xanh rợp bóng
cây cỏ những đốm nắng màu hổ phách, và một mảnh suối lấp lánh dưới chân
dốc… Em nằm bất động, có khi hàng giờ liền, mình đắp cái bao tải thay
chăn, làm các chị y tá cứ tưởng em ngủ say. Hình như em chăm chú lắng
nghe một âm thanh gì đó, rất xa, rất mơ hồ, mà chỉ một mình em nghe
thấy. Thỉnh thoảng em lại chống khuỷu tay nhỏm dậy, nửa nằm nửa ngồi, hý hoáy viết cái gì đó với mẩu bút chì ngắn bằng ngón tay, lên mặt sau tờ
giấy đơn thuốc bỏ đi. Em viết hết tờ này đến tờ khác. Những tờ viết rồi, em xếp thành một tập, đút dưới cái bao tải rách gối đầu, thiếu giấy đơn thuốc, em viết lên những chiếc lá cây vả rừng, thứ lá lớn bằng trang
giấy vở học trò và lúc rụng ngả màu vàng chanh.

Các anh chị bệnh
nhân, y tá, hộ lý tò mò, rón rén đến gần, cúi nhìn trộm xem em viết gì.
Em liền úp hai bàn tay lên tờ giấy hoặc ngọn lá, che lại những gì mình
đang viết và nói với giọng nũng nịu, hờn dỗi: “Em không cho coi mô…ô“.
Cả bệnh viện đều đoán em đang viết nhạc. Và ai cũng ngong ngóng chờ đợi
em lại cho ra đời một bài hát mới, hay như bài “Sông Ô Lâu kháng chiến“. Họ hỏi em: “Sắp xong chưa?“. Em lắc lắc đầu, cười: “Chưa mô… Cái này
mất công lắm. Mà em bị sốt rét ghê quá “ Họ không biết cái này là cái
gì, và em cũng không nói rõ. Họ đoán già đoán non cái này chắc là một
bài hát… Nhưng với bác sĩ Thiền thì em nói: “Em đang viết một vở nhạc
kịch kể câu chuyện bạn em “Đi tìm thuốc cho mẹ“. Anh có tin em sẽ thành
công không?” – em ngước gương mặt mỗi ngày một võ vàng xanh xao, nhìn
bác sĩ Thiền và hỏi. Rồi không đợi bác sĩ trả lời, em khẽ khàng nói
thêm: “Mô-da viết vở nhạc kịch “Cây sáo thần”, lúc ông ấy còn ít tuổi
hơn em…“. – Bác sĩ Thiền ghi vào nhật ký: “Hôm nay mình lại biết thêm
một chuyện lạ“.

Một vở nhạc kịch được viết lên sau những tờ đơn thuốc bỏ đi và lên những lá cây vả rừng. Và chú bé tác giả viết “Cây sáo
thần” của mình, ở quãng ngừng giữa hai đợt sốt rét“.

Chú thích:

(1) Tác giả là nhạc sĩ Văn Cao.

11

Bác sĩ Thiền chống cây gậy làm bằng thân cây lụi, cắm cúi trèo dốc từ Xê-ca Một về bệnh viện. Ông đang có điều phải bận tâm suy nghĩ nên chốc chốc
lại trượt chân, vấp vào những rễ cây, những cây giang, mây song, bò dọc
bò ngang trên lối đi.

Sáng nay, em Nghi liên lạc của Trung đoàn bộ
đến bệnh viện đưa thư mời ông ra Xê-ca Một gặp Ban chỉ huy trung đoàn có việc khẩn, cần trao đổi. Xem thư, ông phỏng đoán Ban chỉ huy trung đoàn lại yêu cầu ông chuẩn bị thuốc men và lực lượng cứu thương cho một trận đánh mới, như mọi bận.

Nhưng thật bất ngờ, chuyện Ban chỉ huy trung
đoan cần trao đổi với ông là chuyện em Quỳnh, chú bé nhạc sĩ. Chính uỷ
trung đoàn đưa cho ông xem hai bức thư của bà mẹ em Quỳnh, và hỏi ý xem
nên giải quyết thế nào. Ông ngồi ngẫm nghĩ khá lâu, rồi nói:

– Chuyện tưởng đơn giản mà hoá phức tạp các đồng chí ạ…

Trước khi nói lên ý kiến của mình, bác sĩ Thiền báo cáo khá tỉ mỉ tình trạng sức khỏe và bệnh tật của Quỳnh hiện nay.

Ông cũng không quên kể lại những việc em làm và tình cảm của cả bệnh viện
đối với em. Và trong thời gian gần đây, em đang mê mải, say sưa viết một vở nhạc kịch mà theo em có thể hay như vở nhạc kịch “Cây sáo thần” của
Mô-da nhạc sĩ thần đồng thiên tài người Áo, cách đây gần hai thế kỷ. Mà
chú ta đã viết vở nhạc kịch đó như thế nào? Trên mặt sau những tờ đơn
thuốc bỏ đi, và trên những ngọn lá cây vả rừng!

– Tôi cũng không đoán chắc, – ông nói, – chú ta có thể thực hiện được ước mơ quá lớn của mình hay không… Nhưng niềm say mê và lòng quyết tâm ghê gớm của chú ta trong việc sáng tác vở nhạc kịch cách mạng, đã làm tôi và hầu như tất cả bệnh viện, phải xúc động sâu sắc. Nhiều hôm tôi bất chợt đi vào lán, bắt gặp chú ta đang nằm tùm hum trên sạp nứa, mình đắp cái bao tải đen thui như giẻ chùi chân, ghé sát mặt bên khuôn cửa sổ nhỏ xíu, cắm cúi viết nhạc
lên lá cây, đôi môi nhỏ như vẫn còn thoảng mùi sữa mẹ, tái nhợt vì thiếu máu, thiếu dinh dưỡng, đang mấp máy khe khẽ một âm điệu gì đó… Tôi đứng lặng người quay mặt đi, lau nước mắt… Và lúc đó tôi vụt có ý nghĩ: Chú
bé chiến sĩ này chính là hiện thân của mộng tưởng và ý chí của tất cả
chúng ta trong giai đoạn kháng chiến bi tráng quyết liệt hiện nay… Việc
này, – Bác sĩ Thiền chỉ vào hai lá thư đặt trên bàn, – theo ý tôi phải
để cho em tự quyết định, lựa chọn. Nếu em muốn rời bỏ kháng chiến, trở
về với gia đình, tôi chắc các anh cũng đồng ý thôi. Có điều em ở vào một “ca” khá đặc biệt: cha em là một tên đại Việt gian mà tôi chắc đã nằm
trong danh sách những tên phản quốc đáng tội xử bắn. Tuy em Quỳnh còn
nhỏ thật, mới mười ba tuổi như trong thư của cha em đã nói, nhưng em lại là một chiến sĩ cứu nước tình nguyện, hơn nữa em đã có đủ trí khôn và
tình cảm cách mạng để viết nên một bài hát kháng chiến mà cả chiến khu
đều hát. Bởi vậy, nếu quyết định lựa chọn rời bỏ chiến khu trở về với
cái gia đình tội lỗi của em, sẽ trở thành một điều xúc phạm sâu sắc đối
với tình cảm của cả chiến khu. Tôi đang hỏi, liệu chú bé mười ba tuổi
này có đủ bản lĩnh để chống chọi với sự cám dỗ khủng khiếp này: sang
Thuỵ Sĩ chữa bệnh và học hành đến lúc thành tài, chiếc đàn dương cầm
nhãn hiệu Ý với giá mấy chục lượng vàng… Trong khi đó ở đây, em chỉ có
bát cháo gạo loãng với mấy con tôm khô kho mặn chát, uống thứ thuốc nước ký ninh hoà nước trời, viết nhạc lên những ngọn lá vả rừng, và có nguy
cơ chết đột ngột vì chứng suy tim… Đừng nói một em bé mười ba tuổi, tôi
chắc nhiều chiến sĩ lớn tuổi đã từng trải, cũng phải vật lộn đau đớn
trong quyết định lựa chọn…

Chính uỷ trung đoàn hỏi:

– Theo ý anh, em Quỳnh có thắng được “sự cám dỗ khủng khiếp” như anh nói không?

– Tôi tin… Tôi cứ nghĩ đến câu hát cuối cùng trong bài hát của em: “Sông Ô Lâu đôi bờ trắng tóc lau… Hát lời thề kháng chiến đến bạc đầu…“. Nhưng
tôi cũng không dám hoàn toàn đoán chắc… Em đang phải đứng trước một thử
thách quá lớn lao.

Anh Thanh Tùng, một cán bộ của phòng chính trị trung đoàn, cũng được mời tham dự cuộc trao đổi, phát biểu ý kiến:

– Theo tôi, chúng ta không nên mạo hiểm để cho chú bé này tự lựa chọn.
Cách tốt nhất là giấu không để cho chú bé biết chuyện. Và chúng ta sẽ
viết thư cho tên đại Việt gian ấy là quân đội kháng chiến sẵn sàng cho
con trai của các người về với các người. Nhưng con các người đã cự
tuyệt, quyết không rời bỏ kháng chiến để đi theo giặc.

– Tôi phản đối thủ đoạn và dối trá, – bác sĩ Thiền cắt ngang lời Thanh Tùng, – mà thủ
đoạn, dối trá với ai? Với đồng đội, đồng chí của mình? Không được! Giải
quyết theo cách đó thật đơn giản và thật đỡ mệt. Nhưng vô tình chúng ta
đã tự làm nhơ bẩn lý tưởng cao đẹp của chúng ta. Lý tưởng đó là Sự Thật!

– Nhưng chúng ta phải đặt quyền lợi của kháng chiến lên trên hết? – Giọng Thanh tùng trở nên gay gắt. – Việc em Quỳnh từ bỏ kháng chiến sẽ có ảnh hưởng xấu, rất xấu là đằng khác, đối với một số cán bộ và chiến sĩ
trong hoàn cảnh gian khổ hiện nay.

– Ngay cả nhân danh vì quyền lợi
của kháng chiến đi nữa, tôi cũng không tán thành sự dối trá. – Sự dối
trá giống như cây kim bọc giẻ. Trước sau rồi người ta cũng biết. Và khi
đã biết, người ta sẽ tự hỏi: Họ đã dối trá với mình từ lúc nào? Và sẽ
còn dối trá đến bao giờ? Và hậu quả xấu của loại câu hỏi này sẽ khó mà
lường hết được.

Chính uỷ nói:

– Tôi đồng ý với cách giải quyết của anh Thiền. Việc này chúng ta cứ để cho em Quỳnh tự do quyết định, lựa chọn.

Trung đoàn uỷ quyền cho anh giải quyết việc này. Anh cứ đưa thư của ba mẹ em
cho em đọc. Sau khi biết rõ nguyện vọng của em, anh sẽ gặp người nhà em, làm công tác tư tưởng với họ, trong cả hai trường hợp: Em xin trở về
với gia đình hay quyết định ở lại chiến khu.

Về đến bệnh viện, bước
vào lán, bác sĩ Thiền thấy Quỳnh đang ngồi cầm thìa húp cháo. Em vừa dứt cơn sốt. Chị hộ lý ép em phải ngồi dậy ăn bát cháo nóng. Chị dỗ dành:“Cháo bữa ni ngon ghê lắm út à, có cả đậu xanh với nếp nghe. Lại có cả
đường đen… Ngon chưa! Em gắng ăn nhiều vô, cho mau lành bệnh rồi còn đàn hát cho các anh các chị nghe. Cả bệnh viện tuần ni không có em đàn hát, cứ buồn thỉu buồn thiu.

Quỳnh múc từng muỗng cháo húp một cách lơ đãng.

Hình như vừa ăn em vừa còn mải nghĩ đi đâu. Húp được vài thìa em lại đặt bát xuống, cầm cái muỗng gõ gõ lên bộ đàn chai xếp thành một hàng dài trên
miếng ván mỏng, kê sát phên liếp. Em gõ lên một hợp âm, lắng nghe, rồi
cau mày, lắc đầu. Em gõ tiếp những hợp âm khác, lại cau mày lắc đầu. Khi đã tìm được một hợp âm vừa ý, em cúi xuống ghi những nốt nhạc lên mặt
sau tờ đơn thuốc bỏ đi.

Như mọi bận, bác sĩ Thiền dựa vai vào cột tre bương khung cừa ra vào, lặng lẽ ngắm Quỳnh mải mê sáng tác. Lòng ông
rưng rưng cảm động. Ông bất chợt nhớ đến một câu nói của chính Mô-da,
người nghệ sĩ thiên tài của các thế kỷ, mà chú bé bệnh nhân của ông đang quyết định đua tài: “Phải hành động cho đến khi không còn một phương
tiện nào nữa mới thôi“.

Chú bé chiến sĩ của chiến khu Hoà Mỹ đang
ngồi kia, đã hành động ngay cả khi không còn một phương tiện nào nữa?
Chú đã quyết định viết vở nhạc kịch lớn đầu tiên của đời mình với những
cái vỏ chai, với những tờ đơn thuốc bỏ đi, với những ngọn lá vả rừng…
ông vụt liên tưởng đến chiếc đàn dương cầm nhãn hiệu Ý, chiếc ghế tròn
đệm bọc nhung đỏ thắm ngồi chơi đàn, gian phòng rộng thênh thang, các
cửa sổ buông rèm thêu đăng ten lọc ánh sáng. Trên những chiếc đôn sứ kê
rải rác quanh buồng là những chậu hoa hồng, hoa cẩm chướng thơm ngát.
Bên ngoài cửa sổ một khu vườn lảnh lót tiếng chim với những lối đi dạo
rải sỏi trắng tinh. Xa xa là dốc núi thoai thoải xanh rợp bóng cây tùng, cây dẻ gai. Một mảnh hồ xanh biếc trôi bồng bềnh những áng mây của bầu
trời Thuỵ Sĩ thanh bình… Tim ông tự nhiên đau nhói với ý nghĩ: “Chú bé
này sắp phải quyết định lựa chọn chiếc đàn dương cầm hay những cái vỏ
chai đựng thuốc, những chậu hoa hồng, hoa cẩm chướng kê trên đôn sứ hay
cái bao tải rách lúc nhúc rận, mảnh hồ xanh biếc, những áng mây và bầu
trời Thuỵ Sĩ thanh bình hay bát cháo gạo luễnh loãng với cục đường đen…
và cứu cánh độc nhất của chú trong cuộc lựa chọn bi thiết này là “Lý
tưởng cứu nước“.

Quỳnh chợt ngẩng lên, bắt gặp cái nhìn đăm đăm của bác sĩ bệnh viện trưởng. Em mỉm cười bối rối nói giọng người có lỗi:

– Dạ, nhất định bữa ni em sẽ ăn hết chén cháo… Cháo chị Liên nấu ngon ghê. Có cả nếp, cả đậu xanh với cục đường đen…

– Nhưng sao đang ăn em lại bỏ dở? – Bác sĩ Thiền làm bộ mặt nghiêm hỏi.

– Dạ… đang ăn em chợt nghĩ được một nét nhạc rất đẹp cho phần mở đầu
chương hai vở nhạc kịch. Không ghi ngay em sợ quên mất… Anh nghe thử hý… Em cầm cái muỗng gõ lên bộ đàn chai, tấu cái giai điệu rất đẹp mà em
vừa chợt nghĩ ra:

– Có được không anh?

Bác sĩ Thiền ngồi xuống bên cạnh, đặt tay lên trán em, nói:

– Tuyệt lắm!

– Anh thấy tuyệt thật à?

Bác sĩ vẫn không rời bàn tay khỏi vầng trán dâm dấp mồ hôi của em với ánh mắt đầy lo ngại. Ông gật đầu…

– Cởi chi em đỡ sốt, cái chân bớt đau nhức thì em đã viết xong phần đầu
của chương hai rồi… Em viết và em mơ đến lúc hoàn thành, sẽ được trình
diễn trên sân khấu Văn hoá đại chúng, khán giả là cả trung đoàn…

Bác sĩ Thiền âu yếm nói:

– Anh cho là vở nhạc kịch của em phải được trình diễn ở Huế, trên sân khấu lớn, sân khấu nhà Ăc-cơi chẳng hạn.

– Nếu trình diễn ở Huế, em sẽ viết một vở mới đồ sộ hơn.

– Em đã có ý rồi… mà đến ngày đó chắc còn lâu anh hè?

– Anh cho không lâu lắm đâu. Nhưng cũng có đủ thời gian cho em hoàn thành vở nhạc kịch mới đồ sộ như em mơ ước…

Rồi làm như vừa chợt nhớ ra, ông nói:

– À có thư của ba mạ em gửi lên cho em đây này. – ông móc túi áo lấy hai lá thư đưa cho em.

Quỳnh đọc xong hai lá thư, ngồi im lặng rất lâu. Rồi nghĩ thế nào em lại cắm cúi đọc lại lá thư của ba em lần nữa.

Gương mặt thơ ngây của em vụt đanh lại, già đi có đến hàng chục tuổi. Đôi môi nhợt nhạt mím chặt như đang cố nuốt một tiếng nấc nghẹn, một lời báng
bổ. Em nhấc cái bao tải kê trên đầu gối để làm bàn viết, đặt sang một
bên. Em nói mà không nhìn ông, mặt ngoảnh ra phía rừng như muốn giấu
những giọt lệ cay đắng rưng rưng trong khóe mắt.

Phó tổng trấn Trung
kỳ! Đã rứa mà không biết xấu hổ lại còn viết ra như khoe? Ba tưởng Trung doàn trưởng Vệ Quốc Đoàn cũng như mấy người tổng đốc tuần phủ ngày xưa, mà gửi đồ lên lo lót cho con… Chao, ba không biết chi hết, không biết
chi hết – Em thảng thốt kêu lên, giọng vang to một âm hưởng đau đớn bị
nghẹt giữa đôi môi mím chặt. Những giọt lệ to, trong suốt lăn dài trên
hai gò má xanh lét của em. Em vội vàng đưa nắm tay nhỏ lên quệt nước
mắt.

– Về việc ba mạ em xin cho em trở về với gia đình em nghĩ thế
nào? Em có muốn về hay không? Ban chỉ huy Trung đoàn có ý kiến việc này
để cho em toàn quyền lựa chọn. Nếu em muốn về, trung đoàn sẵn sàng bố
trí để em về theo luôn với hai chị người nhà của em.

– Hai chị nớ lên chiến khu đã lâu chưa anh? Chừ họ đang ở mô?

Họ mới lên trưa hôm qua. Họ đang ở lại ngoài Tiền chiến khu, chỗ lán của đội em. Họ cứ năn nỉ đòi được vô gặp em…

– Anh cứ để họ ngoài đó, em ra gặp cũng được. Đừng cho họ vô đây Ai biết được chừ bụng dạ họ ra răng?

Bác sĩ Thiền đăm đăm nhìn em, lòng thắc mắc tự hỏi: “Cái giọng từng trải đó chú bé này đã học ai? Và học từ bao giờ vậy?” ông không tự trả lời
được. Có lẽ là bản chất chiến sĩ và nghệ sĩ đã dắt dẫn em.

Quỳnh tụt xuống sạp nằm, nói với ông:

– Anh cho phép em ra ngoài đó gặp họ hí?

– Nhưng em yếu rứa đi ra ngoài đó một mình răng nổi?

– Em chống nạng, em đi thủng thẳng rồi cũng đến nơi…

Anh So xạ thủ súng cối hôm đó vô bệnh viện để chích cái nhọt đồng đanh mọc ở chỗ hiểm, biết chuyện, liền xăng xái nói:

– Chừ anh cũng ra ngoài đó, để anh cõng chú mình ra luôn.

Anh cười hề hề, miệng nở rộng, phô những chiếc răng bàn cuốc vàng khè nhựa thuốc lá, quay sang nói với bác sĩ Thiền:

– Cái số tui ri mà cũng sướng gớm lắm bác sĩ ạ. Từ ngày vô Vệ Quốc Đoàn,
tui toàn được làm bạn với mấy thằng con nít ạ đời. Một thằng thì chạy
rong khắp thành phố, trèo tuốt lên tất cả những ngọn cây cao chót vót
tìm thuốc hen suyễn kinh niên cho mạ. Chừ lại thêm một thằng không chịu
về nhà ăn nem công chả phượng mà đòi ở lại chiến khu ăn sắn, môn thục
với rau tàu bay.

– Nhưng làm răng mà anh biết là em Quỳnh sẽ ở lại chiến khu?

– Răng lại không biết! Ngó cái mặt hắn là tui biết ngay. Mặt Vệ Quốc Quân có sạn có sỏi trong đầu!

– Nhưng em sợ anh cõng nặng, mà anh đang đau… – Quỳnh vịn theo sạp nứa tập tễnh bước và nói.

– Xì chú mi đừng có làm trạng. Sợ anh nặng? Thứ như chú mi, anh chỉ xách
một tay, lia một cái cũng bay thấu qua bên tê sông Ô Lâu…

Anh So vấn
điếu thuốc lá ngọn to bằng ngón tay cái, châm lửa rít mấy hơi liền, rồi
cúi xuống cõng phốc Quỳnh lên lưng, hai tay vòng ra sau lưng, bưng đỡ
cặp mông con nít lục cục những xương của em. Anh nhăn mặt kêu:

– Ui chao? Hắn nặng mới đã gớm! Hơn cả con gà con mới nở?

Cùng ra Tiền chiến khu bữa đó với Quỳnh, có bác sĩ Thiền, mấy anh chị y tá,
hộ lý mang theo xi lanh và thuốc tiêm cấp cứu, cùng với mấy chiến sĩ
bệnh nhân được ra viện.

Chưa có ai yêu thích truyện này!
× Chú ý: Ấn vào MENU chọn D/S TRUYỆN ĐANG ĐỌC hoặc ấn vào biểu tượng CUỘN GIẤY ở trên cùng để xem lại các truyện bạn đang đọc dở nhé.    

Đọc truyện hay đừng quên like và chia sẻ truyện tới bạn bè, để lại bình luận là cách để ủng hộ webtruyenfree. Thỉnh thoảng ấn vào q uảng c áo ngày 1-2 lần để tụi mình có kinh phí duy trì web các bạn nhé!


 BÌNH LUẬN TRUYỆN